Một số vấn đề cơ bản về thuế nhập khẩu theo quy định tại Luật số 107/2016/QH13
Thuế là công cụ kinh tế chủ yếu được nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Một trong những yêu cầu quan trọng trong tổ chức thực thi chính sách thuế là phải thu đúng, thu đủ và đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế. Theo thời gian, các quy định pháp luật về thuế và các văn bản hướng dẫn ngày càng được ban hành để điều chỉnh nghiêm các vấn đề này. Thuế nhập khẩu đối với hàng hoá cũng là một trong những nội dung quan trọng của pháp luật thuế mà Nhà nước quan tâm.
1. Thuế nhập khẩu là gì ?
Thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu động viên từ người tiêu dùng hàng nhập khẩu nhằm góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và bảo hộ sản xuất trong nước. Sử dụng tốt chính sách thuế nhập khẩu là phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của thuế, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thuế nhập khẩu còn là công cụ thể hiện chính sách kinh tế đối ngoại của quốc gia với các quốc gia khác trong thương mại quốc tế.
Thuế nhập khẩu do các tổ chức, cá nhân có hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng chịu thuế phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp theo quy định của pháp luật với mức độ và thời hạn cụ thể. Việc sử dụng có hiệu quả thuế nhập khẩu chính là phát huy đầy đủ các chức năng cơ bản của nó trong lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa. Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực thì thuế nhập khẩu càng thể hiện vai trò và tác dụng không chỉ là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà còn là công cụ thể hiện chính sách đối ngoại giữa các quốc gia với nhau.
2. Đặc điểm của thuế nhập khẩu
Đặc thù của thuế nhập khẩu so với các loại thuế khác trong hệ thống thuế là việc sử dụng thuế nhập khẩu không những tác động đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ ngoại giao và chính sách đối xử với các quốc gia khác. Để phân biệt thuế nhập khẩu với các loại thuế khác trong hệ thống thuế, căn cứ vào các đặc điểm cơ bản sau đây:
– Thuế nhập khẩu chỉ thu vào hàng hóa nhập khẩu mà không thu vào hàng hóa sản xuất trong nước. Cụ thể, đối tượng chịu thuế nhập khẩu được quy định tại Điều 2 Luật thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu 2016 gồm có:
+) Hàng hóa nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam.
+) Hàng hóa nhập khẩu từ khu phi thuế quan vào thị trường trong nước.
+) Hàng hóa nhập khẩu tại chỗ và hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, quyền phân phối.
* Đối tượng chịu thuế nhập khẩu không áp dụng đối với các trường hợp sau:
+) Hàng hóa quá cảnh, chuyển khẩu, trung chuyển;
+) Hàng hóa viện trợ nhân đạo, hàng hóa viện trợ không hoàn lại;
+) Hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan; hàng hóa chuyển từ khu phi thuế quan này sang khu phi thuế quan khác;
+) Phần dầu khí được dùng để trả thuế tài nguyên cho Nhà nước khi xuất khẩu.
– Thuế nhập khẩu gắn với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
– Thuế nhập khẩu do cơ quan Hải quan quản lý thu nhằm gắn công tác quản lý thu thuế nhập khẩu với công tác quản lý nhà nước về hải quan đối với các hoạt động xuất nhập khẩu.
3. Phân loại thuế nhập khẩu
Tùy thuộc vào tiêu thức và yêu cầu của công việc phân loại, có nhiều cách phân loại thuế nhập khẩu, đó là:
Căn cứ vào mục đích của việc thu thuế. Nếu căn cứ vào mục đích của việc thu thuế thì thuế nhập khẩu được chia thành các loại sau:
– Loại để tạo nguồn thu: Thuế nhập khẩu được quy định đối với tất cả các mặt hàng để tạo lập nguồn thu cho chính phủ, không phân biệt khả năng sản xuất, nhu cầu bảo hộ và chính sách thương mại của quốc gia đó.
– Loại để bảo hộ: Loại này thường được quy định có lựa chọn. Nếu trong nước có sản xuất có khả năng sản xuất nhưng chưa đủ sức cạnh tranh, cần sự bảo hộ của nhà nước thì xây dựng mức thuế bảo hộ để hàng sản xuất trong nước đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
– Loại để trừng phạt: Loại thuế này thường được sử dụng để trả đũa những hành vi phân biệt đối xử của một quốc gia này đối với hàng hoá của quốc gia khác.
Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng, thuế nhập khẩu có các loại sau:
– Thuế nhập khẩu tự quản: là loại thuế thể hiện tính độc lập của một quốc gia ( quy định tùy ý theo mục tiêu của quốc gia mình mà không phụ thuộc vào bất kỳ một Hiệp định song phương hoặc đa phương nào đã ký kết).
– Thuế nhập khẩu theo các cam kết quốc tế: là loại thuế thục hiện theo các cam kết trong các Hiệp định song phương hoặc đa phương đã ký kết.
Căn cứ vào cách thức đánh thuế, thuế nhập khẩu được phân chia thành các loại:
– Thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ phần trăm (%): Thuế nhập khẩu tính thuế theo tỷ lệ phần trăm là hình thức tính thuế được quy định theo tỷ lệ phần trăm (%) tính trên trị giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu.
– Thuế kết hợp giữa tính theo tỷ lệ phần trăm (%) và thuế tuyệt đối: Thuế kết hợp giữa tính theo tỷ lệ phần trăm (%) và thuế tuyệt đối là sự kết hợp giữa thuế nhập khẩu tính theo tỷ lệ và thuế nhập khẩu tính theo đơn vị.
– Thuế nhập khẩu biến thiên: Thuế nhập khẩu biến thiên là thuế nhập khẩu được đánh trên hàng nhập khẩu, nhưng thuế xuất thay đổi thường xuyên, thậm chí mỗi ngày. Sắc thuế này thường được ấn định ở một mức nhằm triệt tiên ưu thế về giá cả của nước xuất khẩu đối với hàng hóa sản xuất trong nước.
4. Phương pháp tính thuế nhập khẩu
Để tính thuế nhập khẩu, căn cứ vào quy định của pháp luật liên quan tới cách thức đánh thuế, tại Điều 4 Luật thuế Xuất khẩu, thuế Nhập khẩu năm 2016, các phương pháp tính thuế nhập khẩu thường sử dụng là:
– Phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm là việc xác định thuế theo phần trăm (%) của trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu.
Trị giá tính thuế của hàng hoá nhập khẩu là trị giá hải quan của hàng hoá nhập khẩu – trị giá của hàng hoá nhập khẩu phục vụ cho mục đích tính thuế – giá thực tế phải trả tính đến cửa khẩu nhập đầu tiên (giá này phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên).
– Phương pháp tính thuế tuyệt đối là phương pháp ấn định số tiền thuế nhất định trên một đơn vị hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
– Phương pháp tính thuế hỗn hợp – đây là cách tính thuế nhập khẩu áp dụng đồng thời phương pháp tính thuế theo tỷ lệ phần trăm và phương pháp tính thuế tuyệt đối.
5. Vai trò của thuế nhập khẩu
Xét về chức năng, vai trò của thuế nhập khẩu đều có nét tương đồng với các loại thuế gián thu khác. Tuy nhiên, sự xuất hiện của thuế nhập khẩu lại bắt nguồn từ yêu cầu điều chỉnh sự vận động của hàng hóa giữa các quốc gia có chủ quyền, nó là một bộ phận trong chính sách kinh tế đối ngoại của mỗi nước, nên thuế nhập khẩu cũng có những nét riêng về mặt nội dung, vai trò, cũng như cách thức hành thu. Thông qua việc quy định mức thuế suất cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu thể hiện chính sách và mức độ bảo hộ sản xuất trong nước, cũng như chính sách đối xử giữa các quốc gia, việc áp dụng xác định trị giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đảm bảo tính công bằng, minh bạch sẽ góp phần thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thuế nhập khẩu còn có vai trò quan trọng, cụ thể như sau:
Bảo hộ sản xuất trong nước
Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào đầu vào của quá trình sản xuất thông qua việc đánh thuế trên hàng hóa nhập khẩu là máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất… Ngoài chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các loại thuế gián thu khác, thuế nhập khẩu có chức năng bảo hộ nền sản xuất trong nước thông qua việc tác động vào giá cả của hàng hóa nhập khẩu trên thị trường.
Là nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Khi thực hiện chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế và bảo hộ nền sản xuất trong nước, thuế nhập khẩu góp phần quan trọng trong việc hình thành nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Khi thu thuế nhập khẩu ở mức cao vừa bảo hộ sản xuất trong nước, vừa đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước. Ngược lại, thu thuế nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập khẩu, nhìn bên ngoài số thu đóng góp cho ngân sách thấp hoặc không đáng kể, nhưng xét trong tổng thể quy trình sản xuất xã hội thì thu ngân sách sẽ tăng lên ở khâu tiêu thụ sản phẩm thông qua các loại thuế như giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Kiểm soát hàng hóa nhập khẩu
Khi mở cửa thị trường, có thể nói rằng vì mục tiêu lợi nhuận mà việc mua bán hàng hóa, dịch vụ có thể diễn ra ở bất cứ nơi nào và bất kỳ loại hàng hóa gì. Có những hàng hóa phục vụ nhu cầu cơ bản cho con người, có những hàng hóa, dich vụ là tư liệu sản xuất để sản xuất sản phẩm là động lực trực tiếp nâng cao hiệu quả của nền kinh tế… Bên cạnh đó, cũng có những thứ hàng hóa có thể thâm nhập vào bằng nhiều hình thức làm xâm hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia, đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trên thế giới, nhiều nhà kinh tế học đã chứng minh rằng, có hai loại hàng hóa có mức lợi nhuận siêu ngạch đó là vũ khí và ma túy. Ngoài ra, còn những vật phẩm văn hóa đồi trụy cũng có thể xâm nhập vào thị trường nội địa làm phương hại đến môi trường văn hóa – xã hội của nước nhập khẩu, là mầm mống của nhiều tệ nạn xã hội có thể phát sinh. Mặc dù, với xu thế tự do hóa, toàn cầu hóa đòi hỏi phải cắt giảm hàng rào thuế quan, thuế quan hóa các biện pháp phi thuế quan, nhưng vai trò, vị trí của thuế quan vẫn còn quan trọng. Chính vì vậy, thông qua việc kiểm tra thu thuế nhập khẩu, để biết được thực chất hàng hóa, nhập khẩu qua cửa khẩu loại hàng hóa gì, với số lượng là bao nhiêu, nhập khẩu từ nước nào.v.v… thì Nhà nước mới kiểm soát được tất cả các loại hàng hóa nhập khẩu. Kết hợp với chính sách kinh tế đối ngoại thích hợp, Nhà nước cho phép nhập những loại hàng hóa gì, cầm nhập những loại hàng hóa nào để có biện pháp xử lý kịp thời, không để lọt vào thị trường trong nước.
Trân trọng !