• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Những lá đơn đi vào năm tháng vụ án dân sự ( Liệu Hợp đồng công chứng có vô hiệu theo pháp Quyết của Tòa án)


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc 

ĐƠN KHIẾU NẠI LẦN 2

( Bản án phúc thẩm số: 139/2020/DSPT ngày 12/8/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội)

 

Kính gửi: Ông Nguyễn Hòa BìnhChánh án Tòa án nhân dân tối cao

Chúng tôi là: Nguyễn Viết Cường  – Sinh năm: 1972; Chứng minh thư nhân dân số: 151189261 do Công an thành phố Hà Nội cấp ngày 14/10/2008

Và vợ tôi là: Ngô Thị Hằng – Sinh năm: 1988; Chứng minh thư nhân dân số: 034188000115 do Cục trưởng CCS ĐKQL cư trú và DLQG về dân cư cấp ngày 30/6/2014

Cùng trú tại:  Số nhà: 243 tổ 22 phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình

Chúng tôi nhận được thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khiếu nại số: 666/TB – TA ngày 01/6/2021 của Tòa án nhân dân tối cao, về việc bổ sung đơn khiếu nại bản án số:139/2020/DS-PT ngày 12/8/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Tại thông báo yêu cầu chúng tôi bổ sung đơn  (phải có xác nhận của UBND xã/phường, cung cấp giấy tờ tùy thân), theo đó chúng tôi đã gửi hồ sơ bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, ngoài ra chúng tôi gửi kèm theo các chứng cứ bổ sung, xác nhận/ bản ý kiến của ông Nguyễn Xuân Thọ công chứng viên, làm chứng Hợp đồng ký ngày 06/7/2017 bị Tòa án nhân dân cấp cao tuyên vô hiệu.

Ngày 17/6/2021 chúng tôi gửi hồ sơ bổ sung theo thông báo của Tòa cho đến nay, chúng tôi không nhận được sự phản hồi từ Quý Tòa án. Vì lý do dịch bệnh, cho nên Văn phòng tiếp dân một cửa của Tòa án không tiếp công dân, chúng tôi phải gửi qua đường bưu điện. Vì vậy; Chúng tôi làm đơn này kính gửi Tòa án xem xét phản hồi lại cho chúng tôi được biết, hồ sơ bổ sung gửi Tòa án đã nhận được chưa?, đồng thời hồ sơ vụ án “ tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” chúng tôi chưa nhận được thông báo thụ lý vụ án hoặc thông báo liên quan đến đơn khiếu nại của chúng tôi. Vậy hôm nay chúng tôi làm đơn này, kính đề nghị Tòa án tối cao xem xét và thông báo hồ sơ cho chúng tôi theo quy định của pháp luật.

Cũng vì lí do nêu trên. Hôm nay chúng tôi tiếp tục gửi đơn khiếu nại lần hai, kính mong Quý ông Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, thụ lý và giải quyết cho chúng tôi như sau:

Nội dung vụ án

Vợ chồng tôi  quen biết anh Vũ Mộng Châu, công tác tại Phòng tín dụng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Bình. Anh Châu quen với chị Nguyễn Thị Hồng Lĩnh có mảnh đất tại thửa số 183 tờ bản đồ số 31, địa chỉ Lô 7A1- khu tái định cư tổ 36, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình đang nhờ anh Nguyễn Văn Diệu đứng tên. Mảnh đất này thế chấp vay vốn ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái Bình ( gọi tắt là Agribank) số tiền là 700.000.0000 đồng. Tháng 6/2017, Chị Lĩnh muốn rút thế chấp tại ngân hàng để làm thủ tục sang tên mình nhưng không có tiền, nên anh Châu  giới thiệu vợ chồng tôi cho chị Lĩnh vay tiền. Tôi đồng ý cho chị Lĩnh vay số tiền 800.000.000 đồng để trả ngân hàng. Khi vay tiền chị Lĩnh hẹn với tôi, chị rút thế chấp ở ngân hàng ra để làm thủ tục sang tên từ anh Diệu cho chị rồi chị Lĩnh thế chấp ngân hàng và trả tiền cho anh nhưng không hẹn ngày cụ thể.

Sau khi cho chị Lĩnh vay tiền được khoảng 2 tuần thì chị Lĩnh  đến nhà Tôi nói chị bị anh Diệu lừa lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngân hàng ra nhưng không sang tên cho chị. Chị Lĩnh có nói với tôi là anh Diệu đòi đưa thêm 800.000.000 đồng nữa và chị Lĩnh đồng ý chuyển nhượng từ anh Diệu sang tên vợ chồng tôi luôn. Vì vậy, vợ chồng tôi chuẩn bị tiền và mời anh Thọ đến công chứng tại Trụ sở Công an phường Trần Lãm làm chứng. Vào chiều ngày  05/7/2017 chúng tôi đến Trụ sở Công an phường Trần Lãm có mang theo 02 túi tiền. Tôi đã nói với vợ chồng anh Diệu, chị Hương và chị Lĩnh là ký hợp đồng chuyển nhượng sang tên vợ chồng tôi thì tôi trả cho anh Diệu 800.000.000 đồng, các bên đều đồng ý. Tôi đã đưa 800.000.000 đồng cho anh Diệu, chị Hương là người đếm tiền ( có ông Thọ chứng kiến),  sau đó các bên cùng nhau ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi xong việc thì các bên đều ra về. Việc anh Diệu nói ký vào hợp đồng để trống bên mua là không đúng với thực tế khách quan.

Ngày  05/7/2017 tôi là người mời công chứng viên đến Công an phường Trần Lãm để công chứng. Tài liệu là giấy biên nhận có nội dung “Hôm nay, ngày 12/6/2017 tên tôi là Nguyễn Thị Hồng Lĩnh SCM: 151157480 cấp ngày 19/5/2010 CA. TBình cấp. Hiện tôi đang ở số nhà: 07-tổ 36-phường Trần Lãm-TPTBình tôi có vay của anh Nguyễn Viết Cường địa chỉ 243 Lý Thái Tổ TPTBình số tiền 1.600.000.000 (một tỷ sáu trăm triệu đồng chẵn) để tôi lấy lại sổ đó của anh Nguyễn Văn Diệu. Sau khi sổ đỏ chuyển nhượng sang tên tôi, tôi phải có trách nhiệm thanh toán hết số tiền vay trên cho anh Cường. Nếu không trả được tôi sẽ sang nhượng toàn bộ giấy tờ đất cho anh Cường. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật với anh Cường”.

Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/7/2017 giữa vợ chồng anh Nguyễn Văn Diệu, chị Nguyễn Thị Thu Hương và vợ chồng anh Nguyễn Viết Cường, chị Ngô Thị Hằng đối với lô đất có diện tích 75,6m2 (tại thửa số 183 tờ bản đồ số 31, tại chỉ Lô 7A1- khu tái định cư tổ 36, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) vô hiệu theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015.

Do Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã vi phạm về tố tụng và việc đánh giá chứng cứ và tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng tôi nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình để giải quyết lại theo thủ tục chung và đồng thời vợ chồng tôi có đơn kháng cáo nhưng Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tuyên không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng tôi là không có căn cứ, không đúng pháp luật.

Bởi vì:

Như kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã khẳng định

Ngày 06/7/2017, vợ chồng anh Nguyễn Văn Diệu, chị Nguyễn Thị Thu Hương ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất có diện tích 75,6m2 (tại thửa số 183 tờ bản đồ số 31, tại chỉ Lô 7A1- khu tái định cư tổ 36, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) cho vợ chồng tôi là Nguyễn Viết Cường và Ngô Thị Hằng là giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật vì có đủ các điều kiện sau:

Về hình thức của giao dịch: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên được lập thành văn bản có công chứng, đăng ký đúng theo quy định tại Điều 119 Bộ luật dân sự; Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013.

Về chủ thể tham gia giao dịch: Các bên tham gia giao dịch đều có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, tự nguyện trong việc ký kết, xác lập giao dịch, không có tài liệu nào xác định bên chuyển nhượng là anh Nguyễn Văn Diệu, chị Nguyễn Thị Thu Hương có dấu hiệu là bị lừa dối, ép buộc. Quá trình ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các bên đã đọc hợp đồng, đều nhất trí về nội dung bản hợp đồng và ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt công chứng viên.

Về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự: Không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội.

Mặt khác; Bản án phúc thẩm số: 139/2020/DS – PT vi phạm nghiêm trọng tố tụng như sau:

Ngày 06/7/2017 vợ chồng tôi sau khi mua thửa đất trên, đã cùng với vợ chồng chị Hương làm các thủ tục chuyển đổi sang tên vợ chồng tôi, trong quá trình làm chị Lĩnh  cũng biết, chị Hương, anh Diệu đã rất nhiệt tình, ủng hộ, hợp tác với Ủy ban nhân dân phường Trần Lãm và Sở  TN& MT tỉnh Thái Bình hoàn thiện các thủ tục chuyển sang tên cho vợ chồng tôi như đã thỏa thuận.  Cũng như Bản án hai cấp đều thừa nhận việc hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng và sang tên từ vợ chồng chị Hương sang vợ chồng tôi là đúng quy định. Như vậy thấy đây là một chứng cứ tuyệt đối trung thực tại Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Bình hoàn thiện các thủ tục sang tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng tôi ngày 26/10/2017. Trong trường hợp anh Diệu, chị Hương và bà Lĩnh không đồng thuận, thì Sở TN & Môi trường không thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chúng tôi theo đúng quy định pháp luật.

Từ ngày cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến ngày  31/7/2019 xét xử vụ án sơ thẩm theo đơn khởi kiện của ông Diệu, Bà Hương và bà Lĩnh, thời gian gần hai năm, kể từ ngày vợ chồng ông Cường được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ( gọi tắt: GCNQSSĐ) các bên không có ý kiến với các cơ quan chức năng về việc vợ chồng tôi lừa dối, chiếm đoạt tiền của vợ chồng ông Diệu mà vẫn được Sở Tài nguyên và môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo lời khai của ông Diệu ( tại trang 03 bản án phúc thẩm) “ ông Diệu chưa nhận được bất kỳ một khoản tiền nào từ vợ chồng ông Cường liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận thấy bị lừa dối, ngày hôm sau ( tức ngày 06/7/2017) ông Diệu đã có đơn ra Công an tố cáo hành vi lừa đảo gian dối của ông Cường, bà Lĩnh. Vậy Tòa cấp phúc thẩm không xác minh tại cơ quan công an và các cơ quan chức năng lời khai của ông Diệu có khách quan hay không? là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Theo lời khai của Bà Lĩnh ại trang (06) bản án phúc thẩm “Sáng ngày 06/7/2017 bà nhận được điện thoại của VPCC ra để hoàn tất hồ sơ chuyển nhượng, nhưng khi bà đến VPCC bà chỉ thấy vợ chồng ông Cường ở đó, chứ không có mặt vợ chồng ông Diệu”, trong khi lời khai của ông Thọ công chứng viên được thể hiện tại (trang 08 bản án phúc thẩm “ ngày 06/7/2017 theo đơn yêu cầu công chứng của ông Cường…; đến 14 giờ ngày 05/7/2017 ông Thọ cùng thư ký đến công an phường TRần Lãm, thành phố Thái Bình có mặt vợ chồng ông Diệu, bà Lĩnh, vợ chồng ông Cường và một số người khác, ông tiến hành kiểm tra giấy tờ và cùng thư ký tiến hành soạn thảo HĐCNQSDĐ viết tay theo mẫu, Hợp đồng soạn xong đọc lại cho các bên nghe, hai bên đồng ý nội dung Hợp đồng và tự nguyện ký, điểm chỉ vào Hợp đồng trước sự chứng kiến của Công chứng viên”,

Theo lời khai của ông Thọ công chứng viên và bà Lĩnh mâu thuẫn với nhau, ông Thọ cho rằng theo đơn yêu cầu công chứng của ông Cường đến công an Phường Trần Lãm, ông Thọ đã soạn thảo Hợp đồng và đọc cho các bên là vợ chồng ông Cường cùng vợ chồng ông Diệu ký trước mặt công chứng viên, không ai  lừa dối ai và không ai có ý kiến gì sau khi ký. Bà Lĩnh cho rằng, việc chuyển nhượng phải là đứng tên bà, bà Lĩnh phải là người được ký vào ngày ( 6/7/2017), trong khi giữa vợ chồng ông Diệu phải trả lại đất cho bà Lĩnh, mà ông tôi lại có đơn yêu cầu công chứng. Sau khi đến VPCC bà Lĩnh thấy vợ chồng tôi ở đó và có tên trong Hợp đồng nhận chuyển nhượng, bà Lĩnh lại không ý kiến gì, cho đến khi ra Tòa các cấp thể hiện lời khai ấu trĩ, vô lý mà Tòa cấp phúc thẩm chấp nhận, thì tôi biết kêu ai cho thấu.

Tôi nhận thấy, các lời khai của bà Lĩnh mâu thuẫn nhau và mâu thuẫn với lời khai của ông Thọ. Nhưng Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét việc tiến hành đối chất để làm rõ sự thật khách quan giữa các lời khai còn mâu thuẫn  của  bị đơn và người làm chứng là vi phạm Điều 100 luật tố tụng dân sự.

Kính thưa! Quý ông chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Chứng cứ trong vụ án này, có giấy biên nhận tiền của bà Nguyễn Thị Hồng Lĩnh viết nhận tiền từ tôi như sau “tôi có vay của anh Nguyễn Viết Cường số tiền là : 1.600.000 triệu đồng, để lấy sổ đỏ của anh Nguyễn Văn Diệu, sau khi sổ đỏ chuyển sang tên tôi, tôi có trách nhiệm thanh toán hết số tiền vay trên cho anh Cường, nếu không trả được tôi sẽ sang nhượng toàn bộ giấy tờ đất cho anh Cường”

Để đánh giá chứng cứ trong vụ án này, xem xét Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có bị lừa dối hay không? ngoài lời khai của các đương sự thì giấy biên nhận tiền của bà Lĩnh từ tôi là chứng cứ quan trọng. Bởi vì;

Thứ nhất: Xem xét khoản tiền vay 1,6 tỷ của tôi bà Lĩnh đã tự nguyện cho vợ chồng ông Diệu chuyển nhượng đất sang vợ chồng tôi. Vì; Số tiền vay 1,6 tỷ đồng này được thể hiện bà Lĩnh lấy tiền từ tôi làm 02 lần. Lần thứ nhất vay để chuộc sổ mang tên ông Diệu từ ngân hàng về với số tiền là 800 triệu đồng, lần thứ hai là tôi đưa trực tiếp đưa cho vợ chồng ông Diệu tại công an Phường Trần Lãm. Tuy không giấy tờ, nhưng ông Thọ Làm chứng, ông Thọ nhìn thấy bà Hương vợ ông Diệu đếm tiền xong mới ký công chứng, phù hợp với lời khai của tôi tại Tòa các cấp  (lúc đó ông Diệu còn nói tiền giao, cháo múc), việc tôi giao tiền cho vợ chồng ông Diệu,  ngoài sự chứng kiến của ông Thọ, còn phù hợp với giấy nhận tiền của Bà Lĩnh, vì bà Lĩnh ký vào giấy nhận nợ ngày 12/6/2017.

Thứ hai: Giấy biên nhận tiền ngày 12/6/2017 thể hiện sự thỏa thuận trước khi lấy GCNQSDĐ từ ngân hàng. Trong giấy biên nhận tiền bà Lĩnh đã cam kết, “ số tiền 1, 6 tỷ để lấy sổ đỏ lại anh Diệu, sau đó sang tên bà Lĩnh, bà Lĩnh có trách nhiệm thanh toán hết cho anh Cường, không thanh toán thì sẽ sang nhượng toàn bộ giấy tờ đất cho tôi”.

Trong giấy biên nhận tiền với nội dung được trích dẫn nêu trên, bà Lĩnh thể hiện, sau khi rút sổ đỏ từ ngân hàng về thì sang tên bà Lĩnh, sau đó bà Lĩnh mới sang tên tôi. Nhưng vì bà Lĩnh không muốn phải nộp thuế thu nhập cá nhân hai lần khi chuyển nhượng  đất ( từ ông Diệu sang bà, theo đó từ bà sang tên tôi,  vì bản chất tuy đứng tên  ông Diệu, nhưng cũng cũng là sổ của bà), nên bà Lĩnh chuyển trực tiếp sang cho ông Cường. Đồng thời, theo ngôn ngữ bà Lĩnh viết trong giấy biên nhận cũng được thể hiện ( sau khi sang tên bà Lĩnh phải có trách nhiệm trả hết số tiền vay cho tôi), nhưng vì không có tiền trả tôi, nên bà Lĩnh buộc phải chuyển nhượng đất cho tôi.

Vì: Khi rút sổ từ ngân hàng về bà Lĩnh phải thực hiện hai điều kiện.

Điều kiện thứ nhất: Phải trả cho ông Diệu 800 triêu, ông Diệu mới sang tên sổ cho ông Cường ( hoặc bà Lĩnh).

Điều kiện thứ hai: Bà Lĩnh muốn ông Diệu sang đúng tên của bà, thì bà Lĩnh phải trả 1,6 tỷ cho ông Cường, nhưng trong trường hợp này bà Lĩnh không có tiền trả nợ cho ông Cường, nên buộc phải chuyển nhượng trực tiếp từ ông Diệu sang ông Cường và không có bất kỳ ý kiến gì sau hai năm chuyển nhượng từ các chủ thể nêu trên.

Như vậy; Giấy biên nhận tiền ngày 12/6/2017 thể hiện nội dung thỏa thuận phù hợp với Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký ngày 06/7/2017 với giá trị chuyển nhượng 100 triệu đồng, mục đích ghi giá trị chuyển nhượng thấp hơn nhiều lần so vơi giá trị thực tế, để bên chuyển nhượng thực hiện hành vi trốn thuế.

Tuy nhiên; Do sự chủ quan của cá nhân tôi, khi giao tiền không yêu cầu ông Diệu ghi giấy biên nhận, cũng phù hợp với lúc ban đầu anh Châu dẫn bà Lĩnh vay tiền 800 triệu,  tôi không yêu cầu viết giấy do tin tưởng. Sau ngày 12/6/2017 để tổng hợp số tiền hai lần vay, bà Lĩnh tự nguyện viết giấy vay số tiền 1,6 tỷ. Khi đó bà Lĩnh  nói sẽ chuyển thẳng mảnh đất này sang cho tôi, nên số tiền 800 triệu đưa vợ chồng anh Diệu tôi cũng không yêu cầu viết giấy, vì đã có giấy nhận tiền của bà Lĩnh.

Kính thưa! Ông Chánh án tòa án nhân dân tối cao

Như trên tôi đã nêu, trong trường hợp Bà Lĩnh lừa ông Diệu như lời khai của ông Diệu về số tiền trả nợ, sau đó ông Diệu không nhận số tiền từ tôi, mà ông Diệu bị lừa ký xong bà Lĩnh, lừa lấy sổ đỏ xong, lừa lấy giấy nhận nợ va xé đi. Ông Diệu tố cáo bà Lĩnh ra Công an và cơ quan chức năng nào? Hay không bao giờ tố cáo. Nếu ông Diệu tố cáo bà Lĩnh lừa đảo thì tại vụ án ngày hôm nay vợ chồng ông Diệu và bà Lĩnh đang cùng nhau hợp tác khởi kiện, xây dựng lời khai vô căn cứ để cướp đất của tôi, nhưng lại  không được Tòa án các cấp xác minh làm rõ.

Trong trường hợp Bà Lĩnh đến VPCC chỉ thấy vợ chồng tôi, mà không có vợ chồng ông Diệu, theo đó lại có tên của vợ chồng  tôi trong Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ mà không phải là tên của bà,  bà Lĩnh mất đất, mất nhà vì sự chiếm đoạt của vợ chồng tôi,  bản thân bà Lĩnh chịu sự yên lặng hai năm không ý kiến gì kể từ ngày vợ chồng tôi được cấp sổ đỏ. Trong trường hợp ông Diệu bà Lĩnh lừa đảo nói trả 3.750.000.000 đồng, mà chỉ nhìn thấy tôi đưa có 800.000.000 triệu đồng, sau đó ông Diệu không lấy tiền từ tôi vì cho rằng số tiền không đúng như thỏa thuận ( theo đơn khởi kiện của vợ chồng ông Diệu), nhưng khi tôi tiến hành các thủ tục cấp sổ đỏ tại sao chị Hương, anh Diệu, bà Lĩnh lại không có ý ngay sau khi ký hợp đồng, bản thân họ là người hiểu biết, khi biết Hợp đồng các bên lừa dối nhau mà họ kiên trì yên lặng cho đến khi khởi kiện ra Tòa, mới khai lừa dối, hợp đồng chuyển nhượng không có giá trị pháp lý vì lừa dối là Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội chấp nhận là không đúng với sự thật khách quan và trái với đạo đức, xã hội vì chính họ đang đưa ra lý lẽ lừa dối pháp luật  để chiếm đoạt tài sản của vợ chồng tôi.

Tại vụ án này, Hợp đồng nhận chuyển nhượng của tôi bị tuyên vô hiệu, cho rằng ông Diệu bị bà Lĩnh lừa dối, còn tôi lừa dối bà Lĩnh, ép buộc phải ký. Nhưng lại không chứng minh được tôi ép buộc trước mặt công chứng viên là hoàn toàn vô lý,  trong  khi đó các bên vợ chông ông Diệu, bà Lĩnh không yêu cầu truy tố về việc chiếm đoạt tài sản của nhau, nhưng Tòa án các cấp không xem xét.

Vì vậy; Hôm nay một lần nữa vợ chồng tôi tha thiết, kính đề nghị Quý ông xem xét toàn diện nội dung vụ án; Kháng nghị giám đốc hủy bản án đối số 139/2020/DS-PT ngày 12/8/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội để xét xử lại xác định việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Diệu, chị Hương với với vợ chồng tôi là tuân thủ theo đúng quy định tại Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 như nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình có trong hồ sơ vụ án và đơn kháng cáo của vợ chồng tôi để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chúng tôi theo quy định của pháp luật.

Việc Tòa án nhân cấp cao Hà Nội không thu thập thêm chứng cứ như kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã kháng nghị và nhận định, quyết định rút đơn kháng nghị của Viện kiển sát nhân dân tỉnh Thái Bình là trái pháp luật, đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của chúng  tôi theo quy định của pháp luật.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!

                                                                 Thái Bình; Ngày 10 tháng 11 năm 2021

Chứng cứ bổ sung kèm theo đơn

Chứng minh thư ông Cường (bản sao)

– Chứng minh thư bà Hằng ( bản sao)

– Bản ý kiến công chứng viên ( bản sao)

– Đơn xin xác nhận ( bản sao)

– Đơn đề nghị ( bản sao)

XÁC NHẬN

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN PHƯỜNG KỲ BÁ

 

 

Người làm đơn

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger