Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Chuẩn bị xét xử sơ thẩm được hiểu là hoạt động tố tụng bao gồm những công việc cụ thể (khoản 2, điều 203 BLTTDS) do Toà án tiến hành nhằm chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm được tính bắt đầu từ khi Toà án thụ lý vụ án dân sự và kết thúc khi Toà án mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
1/. Thời hạn chuẩn bị xét xử (không áp dụng với các vụ án được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài)
+ 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án và có thể gia hạn không quá 02 tháng (khi vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan) đối với các vụ án dân sự được quy định tại Điều 26 và Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
+ 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án và có thể gia hạn không quá 01 tháng (khi vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan) đối với các vụ án dân sự được quy định tại Điều 30 và Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Lưu ý: Đối với trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
(Căn cứ khoản 1, điều 203 BLTTDS).
2/. Một số công việc cơ bản trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
2.1. Lập hồ sơ vụ án dân sự
– Thẩm phán lập hồ sơ vụ án theo quy định tại điều 204 BLTTDS
– Yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án
– Tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ (theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 97 của BLTTDS), như:
+ Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;
+ Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng;
+ Trưng cầu giám định;
+ Định giá tài sản;
+ Xem xét, thẩm định tại chỗ;
+ Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;
+ Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú
2.2. Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án
2.2.1. Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Điều 208 BLTTDS)
Trước khi mở phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải, Thẩm phán được giao nhiệm vụ giải quyết vụ án phải thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp. Tuy nhiên, BLTTDS không quy định cụ thể thời gian, địa điểm để tiến hành mở phiên họp, số lượng phiên họp vì vậy Thẩm phán có thể tổ chức phiên họp vào bất cứ thời điểm nào trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sau khi Thẩm phán cho rằng tài liệu chứng cứ đã đầy đủ, nội dung quan hệ tranh chấp đã được xác định rõ…
Nội dung biên bản phiên họp được thực hiện theo Điều 211 BLTTDS. Thẩm phán có thể mở một phiên họp duy nhất (khi có đủ điều kiện theo quy định), hoặc mở nhiều phiên họp (khi xét thấy các bên có thể hòa giải được) tuy nhiên số lượng phiên họp cần được tổ chức hợp lý để không làm mất nhiều thời gian công sức của đương sự.
Thông báo về nội dung phiên họp kiểm tra: Thẩm phán cần thông báo tới đương sự các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phạm vi yêu cầu của các đương sự… để đương sự chủ động hơn trong việc tự mình thu thập tài liệu, giao nộp bổ sung chứng cứ, đề nghị Tòa án tiến hành xác minh thu thập thêm chứng cứ hoặc sửa đổi bổ sung, rút yêu của mình tại phiên họp.
Thông báo về nội dung phiên hòa giải: Thẩm phán cần phải nêu cụ thể nội dung các vấn đề cần hòa giải giữa các đương sự. Nội dung này cần phải đầy đủ rõ ràng những vấn đề mà các bên đã thống nhất, vấn đề các bên chưa thống nhất được xác định trong quá trình lấy lời khai và nghiên cứu hồ sơ tài liệu của Thẩm phán.
2.2.2. Thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Điều 209 BLTTDS)
Thành phần tham dự phiên họp bao gồm: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án chủ trì phiên họp, thư ký ghi biên bản, các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nếu có), người phiên dịch (nếu có). Hoặc trong trường hợp cần thiết Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan tham gia phiên họp là những người được tín nhiệm, có chuyên môn, nhiều kinh nghiệm liên quan tới nội dung tranh chấp mà khi họ tham gia phiên hòa giải sẽ đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên vì họ không phải là đương sự trong vụ án nên Thẩm phán vẫn phải tiến hành hòa giải khi họ vắng mặt.
Sự có mặt, vắng mặt của các đương sự tại phiên họp.
Các đương sự phải tham gia phiên họp theo thông báo của Tòa án. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, không tiến hành phiên hòa giải (thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được) và thông báo kết quả phiên họp cho đương sự vắng mặt.
Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, Thẩm phán phải mở lại phiên họp và thông báo nội dung phiên họp trước đó cho đương sự.
Trong trường hợp, các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và thông báo việc hoãn và thời gian mở lại phiên họp cho đương sự (Thời gian mở lại không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử).
2.2.3. Các vấn đề cần làm rõ tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
(1) Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ phải được Thẩm phán tổ chức cho dù phiên hòa giải giữa các đương sự có thể sẽ không được diễn ra.
Mục đích của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ là nhằm bảo đảm mọi chứng cứ đều được công khai (trừ trường hợp không được phép công khai) trong quá trình tố tụng
Nội dung của Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ gồm: 03 nội dung chính là kiểm tra việc giao nộp chứng cứ, quyền được biết và tiếp cận tài liệu chứng cứ của các đương sự, việc công khai các tài liệu chứng cứ của Tòa án.
– Giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án: Là quyền và cũng là nghĩa vụ của đương sự để chứng minh cho yêu cầu của mình. Kiểm tra việc giao nộp tài liệu chứng cứ là việc xem xétcác chứng cứ được các đương sự giao nộp cho Tòa án có đầy đủ, hợp lệ hay không. Tài liệu chứng cứ có thể do các đương sự tự mình thu thập hoặc các văn bản thể hiện quan điểm của mình về nội dung vụ án… Khi giao nộp Tòa án phải lập biên bản về việc giao nộp tài liệu chứng cứ theo quy định tại Điều 96 BLTTDS.
– Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ: Là việc các đương sự có quyền được biết, được ghi chép, được sao chụp tài liệu trong hồ sơ (khoản 8 Điều 70); Được thông báo về những tài liệu mà Tòa án thu thập được (khoản 5 Điều 97). Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác (khoản 5 Điều 96) trên thực tế rất ít khi đương sự thực hiện nghĩa vụ này và cũng rất khó để xác minh được họ đã thực hiện đầy đủ hay không, trong khi BLTTDS không quy định cụ thể việc thực hiện cũng như hậu quả pháp lý của việc không thực hiện nghĩa vụ sao gửi tài liệu cho những đương sự khác. Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ nhằm giúp các đương sự biết được các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào đó thể đưa ra những lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình.
– Kiểm tra việc công khai tài liệu của Tòa án: Các tài liệu chứng cứ mà Tòa án đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án như: Biên bản lấy lời khai, đối chất của các đương sự, kết quả trưng cầu giám định, định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ (nếu có) … và tài liệu chứng cứ khác do đương sự giao nộp phải được Tòa án công khai. Từ đó đương sự có thể yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập thêm tài liệu chứng cứ hoặc giao nộp thêm tài liệu chứng cứ cho Tòa án nếu thấy cần thiết hoặc yêu cầu Tòa án công khai tài liệu chứng cứ đương sự đã giao nộp nhưng không được công khai (trừ những tài liệu không được công khai) mà không có trong hồ sơ vụ án.
Lưu ý: Thời điểm giao nộp chứng cứ: Đối với các tài liệu, chứng cứ đã được Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được (trong thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS) vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự (điều 96 BLTTDS).
(2) Phiên hòa giải
Phiên hòa giải là để các bên thương lượng, thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp.
Việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là bắt buộc tuy nhiên có những trường hợp không được hòa giải (với yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản nhà nước; Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái với đạo đức xã hội) theo điều 206 BLTTDS, không hòa giải được (do: Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng; Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự; Một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải) theo điều 207 BLTTDS.
Nội dung Phiên hòa giải: Hòa giải là việc các đương sự tự thống nhất với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một số vấn đề trong vụ án qua đó làm rõ yêu cầu của đương sự, căn cứ mà các bên đưa ra để chứng minh cho yêu cầu của mình, những ý kiến đối đáp của các bên để làm sáng tỏ nội dung tình tiết trong vụ án…
Phiên hòa giải dưới sự chủ trì của thẩm phán trên nguyên tắc tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không phù hợp với ý chí của mình, đồng thời nội dung thỏa thuận giữa các đương sự không được vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội .
Việc có hòa giải thành được hay không phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết, thái độ hợp tác và sự thiện chí của các bên đương sự cũng như người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trong trường hợp mỗi đương sự chỉ mong muốn tối đa hóa lợi ích của mình mà không hiểu và thông cảm cho đối phương thì cơ hội để các bên có thể đạt được thỏa thuận thống nhất thường rất mong manh và trong trường hợp đó vụ án sẽ được tòa án đưa ra xét xử.
Kết quả của Phiên hòa giải còn mang ý nghĩa làm rõ yêu cầu, các tình tiết, quan hệ tranh chấp, những vấn đề các bên đã thống nhất và chưa thống nhất giúp cho Hội đồng xét xử giải quyết vụ án đúng đắn trong trường hợp phải mở phiên tòa xét xử, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Tòa án.
3/. Các quyết định của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử:
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tùy từng trường hợp, Thẩm phán ra một trong các quyết định:
+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự: Trong trường hợp hòa giải thành, nếu đương sự nhận thấy nội dung đã thỏa thuận không hợp lý hoặc có sự thay đổi ý kiến về việc hòa giải thì phải gửi văn bản để tòa án biết trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (theo quy định tại điều 212 BLTTDS). Sau khi thẩm phán ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự thì quyết định này có hiệu lực ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, trừ trường hợp quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hoặc vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội.
+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (theo quy định tại điều 214,215,216 BLTTDS).
+ Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (theo quy định tại điều 217, 218 BLTTDS).
+ Đưa vụ án ra xét xử (theo quy định tại điều 220 BLTTDS). Nếu đương sự không hòa giải thành và vụ án không thuộc các trường hợp tạm đình chỉ giải quyết hay đình chỉ giải quyết theo luật định thì Thẩm phán phải ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa; trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng (theo quy định tại khoản 4, điều 203 BLTTDS).
Trên đây là một số nội dung cơ bản về giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.
Bài viết này của Luật sư, chỉ mang tính chất tham khảo, không sử dụng vào mục đích thương mại hoặc bất kỳ hình thức nào khác có hành vi, vi phạm pháp luật./.
Bài viết cùng chủ đề
- "Quả bóng được đá qua nhiều sân" - Chính quyền huyện Đông Anh đùn đẩy, trốn tránh trách nhiệm
- Toà án tỉnh Phú Thọ tuyên phạt tù "chung thân" đối với Hoàng Thanh Hải phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy"
- Một số vấn đề Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi cần bổ sung và làm rõ
- Phân biệt hộ gia đình theo quy định của Luật Đất đai và Luật Cư trú
- Tính lại thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong trường hợp thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung
- Vướng mắc trong việc đọc, ghi chép, sao chụp hồ sơ vụ án của người bào chữa