• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Phân biệt thẩm quyền kiến nghị khởi tố và yêu cầu khởi tố vụ án – Thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện


Trong bài viết này nêu lên một số vướng mắc và đề xuất hoàn thiện quy định về thẩm quyền kiến nghị khởi tố của Tòa án trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.

1. Căn cứ pháp lý

Theo quy định tại khoản 3 Điều 144 BLTTHS năm 2015: “Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm”.

                                                        Ảnh minh họa.

Về mặt lý luận, cần phân biệt trường hợp nào cơ quan Nhà nước là chủ thể của tin báo về tội phạm và trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi tố:

– Cơ quan Nhà nước là chủ thể của kiến nghị khởi tố trong trường hợp thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, xét xử… phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị khởi tố gửi đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án.

– Cơ quan Nhà nước là chủ thể của tin báo về tội phạm trong trường hợp thông qua công tác quản lý hoặc công tác khác, phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết.

Như vậy, kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước là một trong những căn cứ khởi tố vụ án hình sự, pháp luật quy định chỉ có cơ quan Nhà nước mới có quyền kiến nghị khởi tố. Ta có thể hiểu rằng, kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh tế… thông qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực hiện các nhiệm vụ khác phát hiện có dấu hiệu tội phạm và có văn bản

kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra, xử lý nghiêm trọng trước pháp luật.

Về thủ tục giải quyết kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 147 BLTTHS năm 2015 như sau:

(1) Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị khởi tố Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:

– Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

– Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

– Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết kiến nghị khởi tố.

(2) Trường hợp vụ việc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng.

Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.

Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.

(3) Khi giải quyết kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:

– Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;

– Khám nghiệm hiện trường;

– Khám nghiệm tử thi;

– Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.

2. Vướng mắc và đề xuất hoàn thiện pháp luật

Theo Điều 143 BLTTHS 2015 quy định về căn cứ khởi tố vụ án hình sự thì chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ đó là: Tố giác của cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi BLTTHS năm 2017 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau: “1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”

Trong thực tiễn, thông thường là văn bản kiến nghị khởi tố của cơ quan Thanh tra, TAND. Đối với Cơ quan Thanh tra, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm, thì trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày phát hiện dấu hiệu tội phạm, phải chuyển hồ sơ vụ việc đó và bản kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để xem xét khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.

                                                      Ảnh minh họa.

Đối với TAND kiến nghị khởi tố được thể hiện bằng văn bản “Yêu cầu khởi tố vụ án” của Hội đồng xét xử. Khoản 4 Điều 153 BLTTHS năm 2015 quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”.

Tuy nhiên, hiện nay BLTTHS và các văn bản pháp luật khác chưa có phân biệt rõ ràng giữa Kiến nghị khởi tốYêu cầu khởi tố. Tại Điều 144 BLTTHS năm 2015 quy định “Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản….” nhưng khoản 4 Điều 153 BLTTHS năm 2015 lại quy định: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên toà mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”. Như vậy, việc quy định như trên là không thống nhất.

Theo chúng tôi, BLTTHS cần xác định tên gọi chung là Kiến nghị khởi tố đối với các chủ thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức, vì đây là văn bản mang tính pháp lý, có tính chất về việc công. Còn đối với cá nhân, khi có ý kiến đề nghị khởi tố thì được gọi là văn bản Yêu cầu khởi tố, điều này phù hợp với quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 155 BLTTHS năm 2015.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 BLTTHS năm 2015 đối với trường hợp có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà BLTTHS quy định là tội phạm thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung và tại khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung:

1. Khi có căn cứ để cho rằng bị can hoặc bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm, còn có đồng phạm khác hoặc có người khác thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can thuộc một trong các trường hợp sau đây thì Thẩm phán (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) trả hồ sơ để điều tra bổ sung:

a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can hoặc bị cáo đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;

b) Ngoài hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can hoặc bị cáo về một hay nhiều tội khác;

c) Ngoài bị can hoặc bị cáo đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố vụ án, khởi tố bị can.

Hiện nay, thực tiễn áp dụng đối với trường hợp này còn nhiều quan điểm khác nhau.

Thứ nhất, trong mọi trường hợp có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm thì Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.

Thứ hai, trong trường hợp có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm có liên quan đến tội phạm bị cáo bị xét xử thì Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, nếu không có liên quan đến tội phạm bị cáo bị xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên án và kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự.

Quan điểm thứ hai được đồng tình bởi lẽ tại Điều 25 BLTTHS 2015 quy định Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai. Nếu bị cáo đã được đưa ra xét xử và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở kết án đối với bị cáo thì cần tuyên án để đảm bảo nguyên tắc xét xử kịp thời. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm nếu không có liên quan đến tội phạm bị cáo bị xét xử thì Hội đồng xét xử vẫn tuyên án và kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự mà không trả hồ sơ điều tra bổ sung là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật, điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 153 BLTTHS năm 2015.

Từ những vướng mắc nêu trên, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung như sau:

Thứ nhất, quy định tại Điều 153 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền yêu cầu khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử cần sửa đổi cho phù hợp như sau: “…Hội đồng xét xử kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”.

Thứ hai, TANDTC cần có văn bản hướng dẫn trường hợp nào Hội đồng xét xử kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án, trường hợp nào trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu có việc bỏ lọt tội phạm hoặc có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo còn thực hiện hành vi khác mà BLHS quy định là tội phạm.

Thứ ba, giải thích, hướng dẫn theo hướng phân định rõ trường hợp nào TAND thực hiện quyền yêu cầu và trường hợp nào TAND phải kiến nghị khắc phục vi phạm pháp luật khi TAND phát hiện việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật.

Nguồn tham khảo: https://tapchitoaan.vn/

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger