• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Vụ án ly hôn hy hữu Tòa Tỉnh Nam Định xét xử cho chấp nhận người ủy quyền thay mặt đương sự giải quyết yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng (có yếu tố nước ngoài)


Ngày 06/01/2017, ông Mai Đức Dũng và bà Nguyễn Thị Oanh thực hiện việc đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 05/2017. Mọi thủ tục đều được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, năm 2021, bà Nguyễn Thị Oanh (hiện cư trú tại Mỹ) đã ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Liên thay mặt bà Oanh, tiến hành mọi thủ tục và toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng với ông Mai Đức Dũng và phân chia tài sản, công nợ chung. Theo các quy định hiện hành về lĩnh vực dân sự (ủy quyền) và hôn nhân gia đình, khi giải quyết ly hôn (kết hôn trái pháp luật, không công nhận quan hệ vợ chồng,…), đương sự không được phép ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng (không có bất kì ngoại lệ nào khác) nhưng Tòa án tỉnh Nam Định lại chấp nhận ủy quyền này và tiến hành thụ lý giải quyết. Quả thật không thể lý giải nổi là do Thẩm phán không hiểu quy định của pháp luật hay là cố tình có mục đích mà tiếp nhận đơn khởi kiện hy hữu này?

  1. I. BÀ NGUYỀN THỊ OANH (HIỆN ĐANG Ở MỸ) ỦY QUYỀN CHO BÀ NGUYỄN THỊ LIÊN
  2. 1. V“Giấy ủy quyền” của bà Nguyễn Thị Oanh nộp cho Tòa án

Bà Nguyễn Thị Oanh, hiện nay đang ở Mỹ gửi hồ sơ về Việt Nam, trong đó có Giấy ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Liên được lập bằng tiếng Việt, chứng thực tại Mỹ nhưng chưa được hợp pháp hóa lãnh sự là không phù hợp quy định của pháp luật Việt Nam.

Tại khoản 2, điều 478 BLTTDS quy định:

Điều 478. Công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi cho Tòa án Việt Nam

  1. Tòa án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cá nhân cư trú ở nước ngoài lập trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Giấy tờ, tài liệu lập bằng tiếng nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt có công chứng, chứng thực hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam;
  3. b) Giấy tờ, tài liệu được lập ở nước ngoài được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật nước ngoài và đã được hợp pháp hóa lãnh sự;
  4. c) Giấy tờ, tài liệu do công dân Việt Nam ở nước ngoài lập bằng tiếng Việt có chữ ký của người lập giấy tờ, tài liệu đó và đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam”.

Theo đó, Giấy ủy quyền do bà Oanh lập bằng tiếng Việt hợp pháp khi thuộc trường hợp:

(1) Công chứng/chứng thực theo pháp luật nước ngoài (Mỹ) => Bộ ngoại giao Mỹ xác nhận/chứng thực => Hợp pháp hóa lãnh sự tại Đại sứ quán/Lãnh sự quán Việt Nam tại Mỹ => Dịch thuât công chứng tại Việt Nam.

Tuy nhiên, Giấy ủy quyền của bà Oanh lập không có dấu của Bộ Ngoại giao Mỹ và dấu hợp pháp hóa tại Đại sứ quán/Lãnh sự quán Việt Nam tại Mỹ => Không phù hợp theo quy định của pháp luật (Điều 15 Nghị định 111/2011/NĐ-CP) => Không sử dụng được tại Việt Nam.

(2) Giấy tờ, tài liệu do công dân Việt Nam ở nước ngoài lập bằng tiếng Việt có chữ ký của người lập giấy tờ, tài liệu đó và đã được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, Giấy ủy quyền của bà Oanh lập không được công chứng, chứng thực tại Đại sứ quán/Lãnh sự quán Việt Nam tại Mỹ theo quy định của pháp luật Việt Nam => Không phù hợp quy định của pháp luật quy định tại khoản 1, điều 78 Luật Công chứng => Không sử dụng được tại Việt Nam.

Khoản 1, điều 78 Luật công chứng quy định:

“Điều 78. Việc công chứng của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài

  1. Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản, văn bản ủy quyền và các hợp đồng, giao dịch khác theo quy định của Luật này và pháp luật về lãnh sự, ngoại giao, trừ hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn bằng bất động sản tại Việt Nam.….”

 

  1. Nội dung ủy quyền của bà Oanh cho bà Liên

Ngày 29/6/2021, bà Nguyễn Thị Oanh (cư trú tại Mỹ) ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Liên “tham gia các buổi làm việc, tại các phiên Tòa; được toàn quyền quyết định mọi vấn đề có liên quan đến vụ án phân chia tài sản chung, công nợ chung” giữa bà Oanh và ông Dũng và “nộp tiền tạm ứng án phí, án phí và các chi phí tố tụng khác có liên quan”.

=> Bà Liên được ủy quyền về “tài sản chung, công nợ chung” => Không được ủy quyền để giải quyết yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Oanh và ông Dũng.

Do đó, việc bà Oanh được ủy quyền cho bà Liên giải quyết quan hệ “tài sản chung, công nợ chung” là phù hợp theo quy định của pháp luật. Bởi, không thuộc trường hợp không được ủy quyền theo quy định tại khoản 4, điều 85 BLTTDS

“Điều 85. Người đại diện

….

  1. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.

Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện”.

 

  1. 3. Có được ủy quyền để giải quyết yêu cầu “không công nhận quan hệ vợ chồng” không?

– Tại điều 39 Luật HN&GĐ quy định:

“Điều 39. Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình

  1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình.

Con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha, mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha, mẹ của mình.

  1. Cá nhân thực hiện quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình và luật khác có liên quan”.

– Việc “không công nhận quan hệ vợ chồng” được thực hiện khi chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 2, điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình “2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.

=> Đề nghị không quan hệ vợ chồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, điều 53 Luật HN&GĐ “thụ lý đơn yêu cầu ly hôn” nên không được ủy quyền cho người khác quy định tại khoản 4, điều 85 BLTTDS quy định, khi ly hôn không được ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng.

“Điều 85. Người đại diện

….

  1. Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của Bộ luật dân sự là người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.

Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện”.

  1. 4. Có được ủy quyền để giải quyết yêu cầu “hủy kết hôn trái pháp luật” không?

 Việc “hủy kết hôn trái pháp luật” có thể ủy quyền cho người khác thực hiện, bởi không thuộc trường hợp “ly hôn”, phù hợp với nội dung án lệ 53/2022/AL.

  1. 5. Đối với việc bà Oanh không tham gia tố tụng tại Tòa án trong việc yêu cầu “không công nhận quan hệ vợ chồng”

Trong hồ sơ đang có, không có đơn xin xét xử vắng mặt của bà Oanh? => Cần xác định hồ sơ tại Tòa có đơn xin xét xử vắng mặt không?

Trường hợp có đơn xin xét xử vắng mặt => Không vi phạm tố tụng dân sự.

Trường hợp không có đơn xin xét xử vắng mặt => Vi phạm tố tụng.

                             

  1. VỀ VIỆC KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG GIỮA ÔNG DŨNG VÀ BÀ OANH
  2. Về việc đăng ký kết hôn của ông Dũng và bà Oanh

Ngày 06/01/2017, ông Dũng và bà Oanh thực hiện việc đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa An, được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 05/2017.

Tại Biên bản làm việc ngày 18/11/2021 tại UBND xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, đại diện UBND xã Nghĩa An cung cấp “Qua kiểm tra sổ đăng ký kết hôn xã Nghĩa An trong các năm 2016, năm 2017, năm 2018 không có hồ sơ đăng ký kết hôn giữa chị Nguyễn Thị Oanh và anh Mai Đức Dũng lưu tại UBND xã Nghĩa An” (BL 118).

Tại Đơn trình bày ngày 06/12/2021, ông Phạm Văn Hoạt – Chủ tịch UBND xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thì chữ ký trên Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của ông Dũng và bà Oanh cho ông ký, “việc thủ tục trình tự đăng ký kết hôn do cán bộ chuyên môn thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của ngành mình phụ trách” (BL 124, 125).

Tại Bản tự khai ngày 23/5/2022, bà Nguyễn Thị Oanh trình bày: Không tiến hành thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Trên thực tế bà Oanh chưa tiến hành yêu cầu Tòa án giải quyết việc li hôn với ông Phạm Thanh Hiền (sinh năm 1964). Việc ông Dũng nộp cho Tòa án Giấy đăng ký kết hôn số 05/2017 ngày 06/01/2017 giữa bà Oanh và ông Dũng là do nhờ Chủ tịch xã Phạm Văn Hoạt mang về nhà cho tôi và anh Dũng ký ngay tại nhà, ông Dũng và bà Oanh không trực tiếp đến trụ sở UBND xã Nghĩa An để tiến hành việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật (BL 221,219, 207)

Tại Biên bản xác minh ngày 01/06/2022 tại UBND xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định,ông Phạm Xuân Dương – Cán bộ tư pháp hộ tịch UBND xã Xuân Ninh cung cấp “Chị Oanh và anh Hiền trước đây có đăng ký kết hôn vào tháng 12/1987 tại UBND xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Hiện nay sổ đăng ký kết hôn năm 1987 tại địa phương đã bị thất lạc, không còn lưu trữ do thời gian đã lâu. Trong quá trình chung sống chị Oanh và anh Hiền xảy ra mâu thuẫn dẫn tới vợ chồng sống ly thân khoảng 10 năm. Hiện nay cả hai anh chị Oanh, Hiền đang định cư sang Mỹ. Còn việc chị Oanh, anh Hiền đã ly hôn chưa, ly hôn ở đâu thì chính quyền địa phương không nắm được”. Ông Lê Văn Đông – Công an xã Xuân Ninh cung cấp “Theo Sổ đăng ký hộ khẩu tại Xóm Hoàng Diệu 2, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, quyển số 0I, lập ngày 02/09/2006 thể hiện anh Phạm Văn Hiền, sinh năm 1964 là chủ hộ, hiện nay hộ khẩu vẫn còn tại địa phương chưa cắt chuyển đi đâu. Còn đối với chị Nguyễn Thị Oanh đã cắt chuyển khẩu đi từ ngày 21/12/2016, nơi chuyển đến Xóm I, xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định”.

Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị Liên (người được bà Oanh ủy quyền về tài sản chung, công nợ chung) nộp đơn kháng cáo có kèm theo GCNĐKKH của bà Nguyễn Thị Oanh và ông Phạm Thanh Hiền do UBND xã Xuân Ninh cấp số 36/2014, quyển số 02/2013 ngày 27/4/2014, ghi chú đăng ký lại.

Trong suốt quá trình xét xử sơ thẩm, nguyên đơn là người có GCNĐKKH số 36/2014 giữa bà Oanh và ông Hiền nhưng lại không cung cấp cho Tòa án? Tại Biên bản xác minh ngày 01/06/2022 tại UBND xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định cũng không cung cấp thông tin bà Oanh, ông Hiền đăng ký lại kết hôn vào ngày 27/02/2014. Do đó, cần xác minh việc kết hôn được đăng ký lại của bà Oanh, ông Hiền vào năm 2014 tại UBND xã Xuân Ninh có hay không? Cơ sở nào để UBND xã Xuân Ninh cho rằng bà Oanh và ông Hiền đã đăng ký kết hôn vào tháng 12/1987? Dựa vào đâu để UBND xã Xuân Ninh đăng ký lại kết hôn cho bà Oanh, ông Hiền (tài liệu nào mà bà Oanh, ông Hiền cung cấp để UBND xã Xuân Ninh cấp đăng ký lại kết hôn cho ông Hiền, bà Oanh trong khi sổ hộ tịch tại UBND xã Xuân Ninh bị thất lạc, không lưu giữ).

Mặt khác, về quan hệ hôn nhân của bà Oanh, ông Hiền cần phải xác minh tại các cơ quan Tòa án ở Việt Nam (cư trú, làm việc…) về việc đã chấm dứt quan hệ hôn nhân hay chưa? Cơ quan Tòa án tại nước ngoài nơi ông/ bà sinh sống về quan hệ hôn nhân giữa ông bà? Lời khai của ông Hiền về quan hệ của ông với bà Oanh, tháng 12/1987 có đăng ký kết hôn không? Năm 2014 có đi đăng ký kết hôn lại không? Nếu có thì đã ly hôn chưa? tại Đại sứ quán VN/lãnh sự quán VN tại Hoa Kỳ, Tòa án nhân dân tại Việt Nam nơi ông Hiền và bà Oanh trước đây cư trú, làm việc.

Tại Biên bản xác minh ngày 01/06/2022 tại UBND xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định: Ông Lê Văn Đông – Công an xã Xuân Ninh cung cấp “Theo Sổ đăng ký hộ khẩu tại Xóm Hoàng Diệu 2, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, quyển số 0I, lập ngày 02/09/2006 thể hiện anh Phạm Văn Hiền, sinh năm 1964 là chủ hộ, hiện nay hộ khẩu vẫn còn tại địa phương chưa cắt chuyển đi đâu. Còn đối với chị Nguyễn Thị Oanh đã cắt chuyển khẩu đi từ ngày 21/12/2016, nơi chuyển đến Xóm I, xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định”.

– Trường hợp bà Oanh không cung cấp được Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn với ông Phạm Thanh Hiền => Quan hệ hôn nhân của bà Oanh, ông Hiền không hợp pháp, bởi:

+ Không có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn;

+ Không có thông tin đăng ký kết hôn được lưu tại UBND xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường “Hiện nay sổ đăng ký kết hôn năm 1987 tại địa phương đã bị thất lạc, không còn lưu trữ do thời gian đã lâu”.

– Chứng minh quan hệ hôn nhân của bà Oanh, ông Hiền không phải hôn nhân thực tế, bởi:

+ Chung sống với nhau sau ngày 03/01/1987;

+ Không đăng ký kết hôn theo hướng dẫn tại mục 3, Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 “…Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng…”.

(2) Quan hệ hôn nhân giữa bà Oanh và ông Dũng, cần xác minh các nội dung sau:

– Xác minh số Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn 05/2017 tại UBND xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định nếu không cấp cho ông Dũng, bà Oanh thì ai là người được Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn 05/2017 tại UBND xã Nghĩa An, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

– Xác minh/làm việc với “đồng chí Giang tư pháp – Hộ tịch của địa phương thời gian đó…nay chuyển công tác về thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định” về việc đăng ký kết hôn của ông Dũng, bà Oanh? Tại sao lại “sổ đăng ký kết hôn xã Nghĩa An” không có hồ sơ đăng ký kết hôn giữa chị Nguyễn Thị Oanh và anh Mai Đức Dũng lưu tại UBND xã Nghĩa An, trong khi ngày 06/01/2017, UBND xã Nghĩa An cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 05/2017 cho ông Dũng, bà Oanh? Việc không có hồ sơ lưu tại xã là do sai sót (không ghi vào sổ) của cán bộ tư pháp hộ tịch hay vì lý do gì khác?

  1. Về việc giải quyết yêu cầu “không công nhận quan hệ vợ chồng” giữa ông Dũng và bà Oanh

– Giữa ông Dũng và bà Oanh có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 05/2017 do UBND xã Nghĩa An cấp ngày 06/01/2017.

Trường hợp bà Oanh chưa ly hôn với chồng cũ nhưng vẫn đăng ký kết hôn với ông Dũng là vi phạm điều kiện kết hôn được quy định tại điểm d, khoản 1, điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình. Khi đó, các cá nhân/tổ chức có thể yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật theo quy định tại khoản 2, điều 10 Luật Hôn nhân và Gia đình.

– Việc “không công nhận quan hệ vợ chồng” được thực hiện khi chung sống như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định tại khoản 2, điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình “2. Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”, hướng dẫn bởi Thông tư 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016.

=> Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định tuyên “không công nhận quan hệ vợ, chồng” giữa ông Dũng và bà Oanh, trong khi có các hồ sơ, tài liệu sau là không phù hợp với quy định của pháp luật.

(1) Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 05/2017 do UBND xã Nghĩa An cấp ngày 06/01/2017 cho ông Dũng và bà Oanh chưa bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền hủy nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định không công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà Oanh và ông Dũng là trái quy định của pháp luật. Trong hồ sơ không có tài liệu nào chứng minh được quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa bà Oanh và ông Hiền tồn tại khi ông Dũng và bà Oanh được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

(2) Sổ hộ khẩu chủ hộ ông Mai Đức Dũng, tại trang 2 thể hiện thông tin: Nguyễn Thị Oanh (sinh năm 1969, CMND số 162293223) quan hệ với chủ hộ “vợ”, xác nhận của Công an xã Nghĩa An ngày 09/01/2017.

(3) Sổ tạm trú số 410050487, chủ hộ ông Mai Đức Dũng, tại trang 2 thể hiện thông tin: Nguyễn Thị Oanh (sinh năm 1969, CMND số 162293223) quan hệ với chủ hộ “vợ”, xác nhận của Công an xã Lộc Hòa ngày 11/10/2018.

(4) Giấy ủy quyền số 21800254.55/UQ ngày 12/10/2018 của bà Oanh cho ông Dũng liên quan đến các giao dịch tại Agribank – Chi nhánh Thành Nam Bắc Nam Định tại mục ghi chú phía dưới chữ Giấy ủy quyền là chữ “Dành cho các thành viên hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân”.

III. VỀ VIỆC CHIA TÀI SẢN CHUNG GIỮA ÔNG DŨNG VÀ BÀ OANH

Năm 2018, Ông Dũng, bà Oanh nhận chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất (giá 2.200.000.000 đồng) và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CM 986922, số vào sổ cấp GCN: CS04713 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Nam Định cấp ngày 10/10/2018 đối với thửa đất số 151, tờ bản đồ số 33, Lô QH số 9, thửa QH số 6, địa chỉ: Khu tái định cư Phúc Trọng – Bãi Viên, xã Lộc Hòa, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ông Mai Đức Dũng và bà Nguyễn Thị Oanh.

Vay của Ngân hàng Agribank, số tiền 1.200.000.000đồng.

=> Ông Dũng khai, cung cấp:

– Năm 2011, bán 1.887m2 đất, số tiền bán được làm vốn lưu động.

Trong hồ sơ có Đơn xin chuyển nhượng đất của bố ông Dũng cho ông Dũng ngày 10/9/2002 (diện tích 720m2) => Không có hồ sơ chuyển nhượng đất năm 2011, tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bố ông Dũng phần thay đổi sau khi cấp GCN có nội dung ghi nhận ngày 30/6/2011 chuyền nhượng đất 732 m2 đất.

– Năm 2018: góp số tiền (từ việc chuyển nhượng đất 2011): 1.150.000.000VNĐ để mua nhà, đất trên.

– Năm 2018, 2019: Vay của anh Phúc + Cô Hạnh, số tiền: 450 triệu + 650 triệu + 950 triệu => Chuyển tận tay cho bà Oanh 3 tỷ => Nội dung này đưa ra sau buổi hòa giải, công khai chứng cứ nên không được xem xét.

=> Bà Oanh khai, cung cấp:

– Tài sản riêng gửi tại Quỹ tín dụng nhân dân Vân Ninh, xã Xuân Ninh, Xuân Trường: 775.200.000 đồng => Kiểm tra lại hồ sơ tại Tòa án.

– Hồ sơ gửi tiền về cho ông Dũng, thông qua bà Phượng, anh Vũ: 26.100 USD, quy đổi ra tiền VN là: 598.420.000 đồng.

– Lời khai của bà Vũ Thanh Tú, cán bộ ngân hàng Agribank nộp hộ số tiền: 464.396.891 đồng, trong đó: gốc là: 310.000.000 đồng, lãi là 154.396.891 đồng, thời gian từ 6/2019 đến 8/2021.

– Bà Oanh trực tiếp trả tại ngân hàng vào ngày 17/01/2020 và 14/2/2020, số tiền: 15.160.274 đồng.

– Bà Oanh nhờ bà Liên trả vào ngày 13/7/2021, số tiền: 50.000.000 đồng.

Tổng số tiền bà Oanh trả/nhờ trả/chuyển cho ông Dũng: 1.903.177.165 đồng.

=> TH1: Quan hệ hôn nhân của ông Dũng, bà Oanh là hợp pháp đề nghị áp dụng: Điều 213 BLDS quy định:

“Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

  1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.
  2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
  3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
  4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.
  5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này”.

=> TH 2: Quan hệ hôn nhân của ông Dũng, bà Oanh bị hủy do kết hôn trái pháp luật => Phân chia tài sản chung theo Điều 219 BLDS:

“Điều 219. Chia tài sản thuộc sở hữu chung

  1. Trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tình trạng sở hữu chung phải được duy trì trong một thời hạn theo thỏa thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của luật thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu chung có yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp các chủ sở hữu chung có thỏa thuận khác.
  2. Trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán và chủ sở hữu chung đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung và tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.

Căn cứ: Điều 16 Luật HN&GĐ quy định:

Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

  1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
  2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

Như vậy, tài sản sẽ được giải quyết theo nguyên tắc:

 – Tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc về người đó.

– Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.

=> Chứng minh việc chăm lo cho gia đình (ví dụ: chăm sóc mẹ vợ….) của ông Dũng.

Văn phòng Luật sư Hoàng Phát đang làm thủ tục cần thiết để bảo vệ cho ông Mai Đức Dũng tại Tòa cấp cao theo hướng hủy án. Một lần nữa vụ án kéo dài, xử đi, xử lại tốn kinh phí nhà nước cũng như của đương sự. Khó có thể tin rằng là thẩm phán (người áp dụng pháp luật) lại không hiểu rõ các quy định pháp luật hay là do thẩm phán có mục đích khác. Nếu giả chăng là bất cứ trường hợp nào thì cũng đều phải xem xét lại một cách cẩn thận, đây không chỉ là vấn đề về trình độ, về đạo đức của một người thực thi pháp luật, bảo vệ lẽ công bằng, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích chính đáng của mỗi người dân.

(Bài viết này thuộc về Văn phòng Luật sư Hoàng Phát, vui lòng trích nguồn khi sử dụng. Bài viết có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Điều khoản được áp dụng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Mọi ý kiến thắc mắc về bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ mail luatsuhoangphat@gmail.com)

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger