• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Nghiên cứu và đánh giá các quy định về “bảo đảm quyền trẻ em trong chế định ly hôn” theo pháp luật hiện hành


Luật Hôn nhân và gia đình xem trẻ em như là một thành viên đặc biệt của gia đình, cần có sự bảo hộ pháp lý đặc biệt. Vấn đề đảm bảo quyền trẻ em thể hiện trong các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về quyền nhân thân và quyền tài sản trong các mối quan hệ giữa cha mẹ – con cái, giữa anh chị em, giữa ông bà – cháu, giữa các thành viên khác trong gia đình như quyền được khai sinh, quyền được xác định cha mẹ, quyền được cha mẹ yêu thương, trông nom, dạy dỗ, quyền tài sản, quyền được cấp dưỡng, quyền được cha mẹ thay mặt bồi thường thiệt hại cho người khác.

Trong phạm vi bài viết này, Luật Hoàng Phát xin phép nghiên cứu và đánh giá các quy định về “bảo đảm quyền trẻ em trong chế định ly hôn” theo pháp luật hiện hành.

I. Các quy định về bảo đảm quyền trẻ em trong chế định ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện hành

1. Nguyên tắc quyết định bên nào sẽ nuôi dưỡng, giáo dục con vì quyền lợi của con

Căn cứ theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

Sau khi ly hôn, một trong những vấn đề quan trọng được đặt ra đó là ai sẽ người trực tiếp nuôi con. Theo quy định của pháp luật thì cha, mẹ có thể thỏa thuận hoặc Tòa án có quyền quyết định xem ai sẽ là người trực tiếp nuôi con. Nếu con dưới 36 tháng tuổi thì được giao cho mẹ trực tiếp nuôi bảo đảm điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng tốt nhất cho đứa bé mới sinh trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Chỉ trong những trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con thì người mẹ mới không có quyền trực tiếp nuôi dưỡng con. Quy định trên của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nhằm trực tiếp bảo vệ trẻ sơ sinh, bảo đảm sự chăm sóc cần thiết nhất cho trẻ.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã ghi nhận quyền được bày tỏ ý kiến của trẻ em mong muốn được sống chung với cha hoặc mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Trường hợp hai bên cha mẹ không thỏa thuận được ai là người trực tiếp nuôi con thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi căn cứ vào lợi ích mọi mặt của con cũng như xem xét nguyện vọng của con nếu con trên 07 tuổi. Tuy nhiên, việc hỏi ý kiến của các em sẽ không mang ý nghĩa quyết định mà chỉ là một trong những cơ sở cần thiết để Tòa án xem xét, lựa chọn người nuôi con, đảm bảo cho trẻ có sự phát triển tốt nhất. Quy định được phát triển dựa trên tinh thần của Điều 12 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em mà Việt Nam là quốc gia thành viên.

2.Quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa cha mẹ và con

Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa cha mẹ và con được thực hiện sẽ mang lại những lợi ích về tinh thần cho cha mẹ và con, thể hiện sự gắn kết yêu thương và những giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp trong quan hệ giữa cha mẹ và con. Quy định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con là một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền trẻ em trong mọi trường hợp, thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm giữa cha mẹ với con.

*Trẻ em có quyền được cha mẹ yêu thương, chăm sóc

Điều 71 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 quy định:

Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”

Xuất phát từ mối liên hệ tình cảm giữa cha mẹ và con, pháp luật quy định cụ thể cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con. Cha mẹ thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con, chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Cha mẹ không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của mình, không làm dụng sức lao động của con, không xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

*Trẻ em có quyền được giáo dục

Theo quy định tại Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập.

Trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em, quyền được giáo dục của trẻ em là một quyền cơ bản nằm trong nhóm quyền được phát triển của trẻ. Trẻ em cần phải nhận được một sự giáo dục tốt nhất để phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần. Cha mẹ phải chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập, tạo điều kiện để con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận. Cha mẹ phải có trách nhiệm làm gương để con noi theo. Bởi, giáo dục gia đình có tầm ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành nhân cách của trẻ.

Thực hiện nghĩa và quyền giáo dục con, cha mẹ phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản của trẻ theo quy định của pháp luật, đối xử bình đẳng đối với các con, không được phân biệt đối xử với các con trên cơ sở giới.

Sau đó, dù bố mẹ ly hôn nhưng con vẫn có quyền được nhận tình yêu thương và sự chăm sóc của cả cha và mẹ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”.

Đây là một trong những quyền quan trọng của người không trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, trong trường hợp người này lạm dụng việc thăm nom để gây ảnh hưởng xấu đế sự phát triển, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi dưỡng đứa trẻ có trách nhiệm bảo vệ con trước những nguy cơ đến từ người không trực tiếp nuôi con. Theo đó, người không trực tiếp nuôi con nếu lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến con đều là hành vi, vi phạm pháp luật, khi đó, người trực tiếp nuôi con có thể yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con. Nội dung này được quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhận và gia đình năm 2014:

1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:

  1. a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
  2. b) Phá tán tài sản của con;
  3. c) Có lối sống đồi trụy;
  4. d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
  5. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.

Có thể thấy, xét dưới góc độ pháp lý, quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ là quyền tuyệt đối của cha mẹ. Tuy nhiên, có những trường hợp người cha, người mẹ không thể là người chăm sóc, giáo dục con tốt vì bản thân lối sống và hành vi của họ có tác động xấu đến con. Xuất phát từ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em, pháp luật quy định về việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con. Trên thực tế, dựa vào tính chất của việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con, nếu có thể xác định rằng có dấu hiệu cho thấy cha, mẹ – người bị hạn chế quyền đã ăn năn, hối lỗi và sữa chữa những lỗi lầm của mình đối với con thì Tòa án có thể rút ngắn thời hạn bị hạn chế để bảo vệ quyền được nuôi dưỡng, chăm sóc, yêu thương của trẻ.

Như vậy, pháp luật quy định cụ thể giới hạn trách nhiệm của cha mẹ đối với con. Theo đó, cha mẹ phải thực hiện những việc nhằm đảm bảo cho sự phát triển tốt nhất của con. Cha mẹ không được phép thực hiện các hành vi gây bất lợi đối với con, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của con. Trường hợp vi phạm sẽ có các chế tài phù hợp để xử lý. Đây là một trong những biện pháp cần thiết để hạn chế tình trạng lạm dụng quyền của cha mẹ đối với con.

3. Quy định về cấp dưỡng nuôi con sau khi cha mẹ ly hôn

Theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”.

Pháp luật quy định cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn nhằm bảo đảm cho đứa trẻ có cuộc sống ổn định, cấp dưỡng được coi là bù đắp phần nào cho đứa trẻ khi gia đình tan vỡ, thiếu đi sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha hoặc mẹ là tổn thất vô cùng lớn đối với trẻ. Nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con được bảo đảm ngay cả trong trường hợp cha mẹ đã bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

Theo quy định tại Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

1. Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo khoản 2 Điều 27 Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định:

Cha mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ hay những người khác chịu trách nhiệm về trẻ em có trách nhiệm đầu tiên trong việc bảo đảm các điều kiện sống cần thiết cho sự phát triển của trẻ em theo năng lực và khả năng tài chính của mình.

Vì vậy, cha mẹ không có quyền từ chối trách nhiệm nuôi con. Về nguyên tắc, nghĩa vụ nuôi dưỡng con của cha mẹ phát sinh từ khi con sinh ra cho đến khi con thành niên và không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ.

Trong trường hợp cha, mẹ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng thì người còn lại đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án buộc người kia thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Nếu cha mẹ cố tình không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật.

II. Đánh giá và một số kiến nghị về các quy định về bảo đảm quyền trẻ em trong chế định ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện hành

Bảo vệ trẻ em nói chung và bảo đảm quyền trẻ em sau khi bố mẹ ly hôn nói riêng luôn là một điều được cả xã hội quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Cả xã hội đã luôn cố gắng tạo điều kiện cho trẻ em được phát triển một cách toàn diện. Nhà nước đã đưa ra rất nhiều chủ trương, chính sách và nâng lên thành luật. Rất nhiều quyền lợi của trẻ em được pháp luật bảo vệ như quyền được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, được học hành, được vui chơi và phát triển toàn diện…

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định cụ thể hơn quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trường hợp cha mẹ ly hôn, phù hợp hơn với thực tế đời sống gia đình Việt Nam, đồng bộ với pháp luật có liên quan. So với pháp luật thời kì trước, Luật Hôn nhân và gia đình đã hạ quy định độ tuổi trẻ em từ chín tuổi xuống còn bảy tuổi được bày tỏ ý chí của mình trong một số quan hệ hôn nhân và gia đình mà không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, đồng thời quy định như vậy là bảo đảm sự hài hòa giữa Luật Hôn nhân và gia đình với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số điểm bất cập về quy định cấp dưỡng cho con sau ly hôn của cha mẹ.

Thứ nhất, Pháp luật hiện hành vẫn chưa có quy định rõ ràng về mức cấp dưỡng. Pháp luật không quy định mức cấp dưỡng cụ thể là 2 triệu; 5 triệu hay 100 triệu/tháng; mà tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận dựa vào điều kiện; thu nhập của người cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Thông thường, khi quyết định mức tiền phải cấp dưỡng; tòa án sẽ căn cứ vào mức thu nhập của người cấp dưỡng; vì vậy mức cấp dưỡng thường không cao hơn mức thu nhập của người cấp dưỡng; dao động 15-30% mức thu nhập của người cấp dưỡng. Trường hợp không xác định được mức thu nhập của người cấp dưỡng; thì lương tối thiểu vùng hoặc án lệ trước đó sẽ là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc. Tuy nhiên không có một văn bản luật chính thức hướng dẫn nội dung này, mỗi Tòa án có thể có một cách xác định khác nhau gây nên sự thiếu đồng bộ, không nhất quán. Bên cạnh đó, mức cấp dưỡng phải đảm bảo được các nhu cầu cần thiết trên thực tế của con, mỗi giai đoạn sẽ có những thay đổi nhất định. Việc Tòa quyết định mức cấp dưỡng chỉ dựa vào thu nhập của người phải cấp dưỡng và không có sự điều chỉnh mức cấp dưỡng trong suốt thời gian đến khi con thành niên có thể sẽ không đảm bảo được các nhu cầu thiết yếu của con.

Đề xuất kiến nghị: Quy định rõ ràng về các căn cứ, hướng dẫn xác định mức cấp dưỡng, bổ sung các trường hợp mà mức cấp dưỡng buộc phải thay đổi như trẻ em được cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn hơn do bị bệnh tật, tai nạn; hoặc đứa trẻ ngày càng lớn, nhu cầu chi tiêu cho việc học ngày càng nhiều; giá cả thị trường có sự biến động; người trực tiếp nuôi con không còn việc làm nên không có lương hoặc có thu nhập hợp pháp khác,… Trong những trường hợp trên, mức cấp dưỡng cần phải được điều chỉnh theo hướng tăng lên để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của trẻ em.

Thứ hai, về cơ chế xử lý những trường hợp vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng. Trên thực tế, vấn đề vi phạm về nghĩa vụ cấp dưỡng rất phổ biến mặc dù đã có chế tài xử lý do chưa đủ nghiêm khắc và vấn đề xử lý hành vi vi phạm vẫn còn chưa kiên quyết. Điều 186 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng, làm cho người được cấp dưỡng lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 380 của Bộ luật này, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.” Có thể thấy, chế tài như trên chưa đủ tính răn đe đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn. Vì vậy, tình trạng trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn còn khá phổ biến.

Đề xuất kiến nghị: Pháp luật cần có chế tài nghiêm khắc hơn cũng như kiên quyết xử lý đối với những người có hành vi vi phạm vấn đề này. Nhà nước cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho người dân về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con khi ly hôn, để người cha, người mẹ tự nguyện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn.

Ngoài ra, Luật Hoàng Phát xin đề xuất một hướng thay đổi mới đó là: Cần quy định cấp dưỡng là nghĩa vụ bắt buộc kể cả trong trường hợp bên trực tiếp nuôi con từ chối. Quyền được cấp dưỡng là quyền lợi của người con nên người trực tiếp nuôi dưỡng không có quyền từ chối. Quy định như vậy để đảm bảo tối đa quyền lợi của con, đảm bảo con cuộc sống của con không bị xáo trộn, thay đổi quá nhiều sau khi cha, mẹ ly hôn.

Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, quyền và lợi ích của trẻ em được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Điều 37 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Điều luật trên được cụ thể hóa thành một trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ, Khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định “Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân gia đình; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình”. Khi cha mẹ ly hôn, con cái là đối tượng chịu ảnh hưởng tiêu cực của việc ly hôn một cách trực tiếp. Do đó, việc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em khi cha mẹ ly hôn là cần thiết, là yêu cầu tất yếu.

(Bài viết này thuộc về Văn phòng Luật sư Hoàng Phát, vui lòng trích nguồn khi sử dụng. Bài viết có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Điều khoản được áp dụng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Mọi ý kiến thắc mắc về bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ mail luathoangphat@gmail.com)

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger