• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Hợp đồng công chứng ngay tình trong giao dịch dân sự, nhưng bị TAND các cấp tuyên “vô hiệu”, Luật sư Hoàng Phát đi tìm công lý?


NỘI DUNG VỤ ÁN

Anh NVC và vợ là chị NTH quen biết anh VMC, công tác tại Phòng tín dụng ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Thái Bình. Anh C quen với chị NTHL có mảnh đất tại thửa số 183 tờ bản đồ số 31, địa chỉ Lô 7A1- khu tái định cư tổ x, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình đang nhờ anh NVD đứng tên. Mảnh đất này thế chấp vay vốn ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Thái Bình ( gọi tắt là Agribank) số tiền là 700.000.0000 đồng. Tháng 6/2017, Chị L muốn rút thế chấp tại ngân hàng để làm thủ tục sang tên mình nhưng không có tiền, nên anh C giới thiệu hai vợ chồng tôi anh NVC cho chị L vay tiền. Anh NVC đồng ý cho chị L vay số tiền 800.000.000 đồng để trả ngân hàng. Khi vay tiền chị L hẹn với anh NVC, chị rút thế chấp ở ngân hàng ra để làm thủ tục sang tên từ anh D cho chị rồi chị L thế chấp ngân hàng và trả tiền cho anh nhưng không hẹn ngày cụ thể.

Sau khi cho chị L vay tiền được khoảng 2 tuần thì chị L đến nhà anh NVC nói chị bị anh D lừa lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngân hàng ra nhưng không sang tên cho chị. Chị L có nói với tôi là anh D đòi đưa thêm 800.000.000 đồng nữa và chị L đồng ý chuyển nhượng từ anh D sang tên vợ chồng anh NVC luôn. Vì vậy, vợ chồng anh NVC chuẩn bị tiền và mời anh T đến công chứng tại Trụ sở Công an phường Trần Lãm làm chứng. Vào chiều ngày  05/7/2017 vợ chồng anh NVC đến Trụ sở Công an phường Trần Lãm có mang theo 02 túi tiền. Anh NVC đã nói với vợ chồng anh D và chị H, chị L là ký hợp đồng chuyển nhượng sang tên vợ chồng anh NVC thì anh NVC trả cho anh D 800.000.000 đồng, các bên đều đồng ý. Anh NVC đã đưa 800.000.000 đồng cho anh D, chị H là người đếm tiền ( có ông T chứng kiến), sau đó các bên cùng nhau ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi xong việc thì các bên đều ra về.

Ngày 05/7/2017 anh NVC là người mời công chứng viên đến Công an phường Trần Lãm để công chứng. Tài liệu là giấy biên nhận có nội dung “Hôm nay, ngày 12/6/2017 tên tôi là NTHL SCM: 151157xxx cấp ngày 19/5/2010 CA. Thái Bình cấp. Hiện tôi đang ở số nhà: xx-tổ x-phường Trần Lãm-TPTBình tôi có vay của anh NVC địa chỉ xxx Lý Thái Tổ TP. Thái Bình số tiền 1.600.000.000 (một tỷ sáu trăm triệu đồng chẵn) để tôi lấy lại sổ đó của anh NVD. Sau khi sổ đỏ chuyển nhượng sang tên tôi, tôi phải có trách nhiệm thanh toán hết số tiền vay trên cho anh NVC. Nếu không trả được tôi sẽ sang nhượng toàn bộ giấy tờ đất cho anh NVC. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật với anh NVC”.

Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 06/7/2017 giữa vợ chồng anh NVD, chị NTTH và vợ chồng anh NVC, chị NTH đối với lô đất có diện tích 75,6m2 (tại thửa số x tờ bản đồ số 31, tại chỉ Lô 7A1- khu tái định cư tổ x, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) vô hiệu theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015.

Do Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã vi phạm về tố tụng và việc đánh giá chứng cứ và tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ chồng anh NVC nên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình để giải quyết lại theo thủ tục chung và đồng thời vợ chồng anh NVC có đơn kháng cáo nhưng Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tuyên không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng anh NVC.

Tôi là Luật sư Nhâm Thị Lan bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho vợ chồng anh NVC, qua nghiên cứu, đánh giá hồ sơ, tôi xin đưa ra quan điểm của bản thân như sau:

Theo Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã khẳng định:

Ngày 06/7/2017, vợ chồng anh NVD, chị NTTH ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất có diện tích 75,6m2 (tại thửa số x tờ bản đồ số 31, tại chỉ Lô 7A1- khu tái định cư tổ x, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) cho vợ chồng anh NVC và NTH là giao dịch dân sự có hiệu lực pháp luật vì có đủ các điều kiện sau:

Về hình thức của giao dịch: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên được lập thành văn bản có công chứng, đăng ký đúng theo quy định tại Điều 119 Bộ luật dân sự; Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013.

Về chủ thể tham gia giao dịch: Các bên tham gia giao dịch đều có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, tự nguyện trong việc ký kết, xác lập giao dịch, không có tài liệu nào xác định bên chuyển nhượng là anh NVD, chị NTTH có dấu hiệu là bị lừa dối, ép buộc. Quá trình ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các bên đã đọc hợp đồng, đều nhất trí về nội dung bản hợp đồng và ký tên, điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt công chứng viên.

Về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự: Không vi phạm điều cấm, không trái đạo đức xã hội.

Mặt khác, Bản án phúc thẩm số: 139/2020/DS – PT vi phạm nghiêm trọng tố tụng như sau:

Ngày 06/7/2017 vợ chồng anh NVC sau khi mua thửa đất trên, đã cùng với vợ chồng anh D, chị H làm các thủ tục chuyển đổi sang tên, trong quá trình làm chị L cũng biết, chị H, anh D đã rất nhiệt tình, ủng hộ, hợp tác với Ủy ban nhân dân phường Trần Lãm và Sở TN& MT tỉnh Thái Bình hoàn thiện các thủ tục chuyển sang tên cho vợ chồng anh NVC như đã thỏa thuận.  Cũng như Bản án hai cấp đều thừa nhận việc hoàn tất các thủ tục chuyển nhượng và sang tên từ vợ chồng chị H, anh D sang vợ chồng anh NVC là đúng quy định. Như vậy thấy đây là một chứng cứ tuyệt đối trung thực tại Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Thái Bình hoàn thiện các thủ tục sang tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh NVC ngày 26/10/2017. Trong trường hợp anh D, chị H và bà L không đồng thuận, thì Sở TN & Môi trường không thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng anh NVC theo đúng quy định pháp luật.

Từ ngày cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến ngày  31/7/2019 xét xử vụ án sơ thẩm theo đơn khởi kiện của anh D, chị H và chị Lĩnh, thời gian gần hai năm, kể từ ngày vợ chồng ông NVC được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt: GCNQSSĐ) các bên không có ý kiến với các cơ quan chức năng về việc vợ chồng anh NVC lừa dối, chiếm đoạt tiền của vợ chồng ông D mà vẫn được Sở Tài nguyên và môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Theo lời khai của ông D “ông D chưa nhận được bất kỳ một khoản tiền nào từ vợ chồng ông NVC liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhận thấy bị lừa dối, ngày hôm sau ( tức ngày 06/7/2017) ông D đã có đơn ra Công an tố cáo hành vi lừa đảo gian dối của ông NVC, bà L. Vậy Tòa cấp phúc thẩm không xác minh tại cơ quan công an và các cơ quan chức năng lời khai của ông D có khách quan hay không là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Theo lời khai của ông T công chứng viên và bà L mâu thuẫn với nhau, ông T cho rằng theo đơn yêu cầu công chứng của ông NVC đến công an Phường Trần Lãm, ông T đã soạn thảo Hợp đồng và đọc cho các bên là vợ chồng ông NVC cùng vợ chồng ông D ký trước mặt công chứng viên, không ai lừa dối ai và không ai có ý kiến gì sau khi ký. Bà L cho rằng, việc chuyển nhượng phải là đứng tên bà, bà L phải là người được ký vào ngày ( 06/7/2017), trong khi giữa vợ chồng ông D phải trả lại đất cho bà L, mà ông NVC lại có đơn yêu cầu công chứng. Sau khi đến VPCC bà L thấy vợ chồng anh NVC ở đó và có tên trong Hợp đồng nhận chuyển nhượng, bà Lĩnh lại không ý kiến gì, cho đến khi ra Tòa các cấp thể hiện lời khai ấu trĩ, vô lý mà Tòa cấp phúc thẩm chấp nhận, không xem xét việc tiến hành đối chất để làm rõ sự thật khách quan giữa các lời khai còn mâu thuẫn  của  bị đơn và người làm chứng là vi phạm Điều 100 luật tố tụng dân sự.

Chứng cứ trong vụ án này, có giấy biên nhận tiền của bà NTHL viết nhận tiền từ anh NVC như sau “tôi có vay của anh NVC số tiền là : 1.600.000 triệu đồng, để lấy sổ đỏ của anh NVD, sau khi sổ đỏ chuyển sang tên tôi, tôi có trách nhiệm thanh toán hết số tiền vay trên cho anh NVC, nếu không trả được tôi sẽ sang nhượng toàn bộ giấy tờ đất cho anh NVC

Để đánh giá chứng cứ trong vụ án này, xem xét Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ có bị lừa dối hay không? ngoài lời khai của các đương sự thì giấy biên nhận tiền của bà Lĩnh từ anh NVC là chứng cứ quan trọng. Bởi vì;

Thứ nhất: Xem xét khoản tiền vay 1,6 tỷ của anh NVC bà L đã tự nguyện cho vợ chồng ông D chuyển nhượng đất sang vợ chồng anh NVC. Vì, Số tiền vay 1,6 tỷ đồng này được thể hiện bà L lấy tiền từ tôi làm 02 lần. Lần thứ nhất vay để chuộc sổ mang tên ông D từ ngân hàng về với số tiền là 800 triệu đồng, lần thứ hai là anh NVC đưa trực tiếp đưa cho vợ chồng ông D tại công an Phường Trần Lãm. Tuy không giấy tờ, nhưng ông T Làm chứng, ông T nhìn thấy bà H vợ ông D đếm tiền xong mới ký công chứng, phù hợp với lời khai của anh NVC tại Tòa các cấp  (lúc đó ông D còn nói tiền giao, cháo múc), việc anh NVC giao tiền cho vợ chồng ông D,  ngoài sự chứng kiến của ông T, còn phù hợp với giấy nhận tiền của Bà L.

Thứ hai: Trong giấy biên nhận tiền, bà L thể hiện, sau khi rút sổ đỏ từ ngân hàng về thì sang tên bà L, sau đó bà L mới sang tên anh NVC. Nhưng vì bà L không muốn phải nộp thuế thu nhập cá nhân hai lần khi chuyển nhượng  đất ( từ ông D sang bà, theo đó từ bà sang tên anh  NVC,  vì bản chất tuy đứng tên ông D, nhưng cũng cũng là sổ của bà), nên bà L chuyển trực tiếp sang cho ông NVC. Đồng thời, theo ngôn ngữ bà Lĩnh viết trong giấy biên nhận cũng được thể hiện ( sau khi sang tên bà L phải có trách nhiệm trả hết số tiền vay cho anh NVC), nhưng vì không có tiền trả, nên bà L buộc phải chuyển nhượng đất.

Tuy nhiên, do sự chủ quan của cá nhân tôi, khi giao tiền không yêu cầu ông D ghi giấy biên nhận. Sau ngày 12/6/2017 để tổng hợp số tiền hai lần vay, bà L tự nguyện viết giấy vay số tiền 1,6 tỷ. Khi đó bà L nói sẽ chuyển thẳng mảnh đất này sang cho tôi, nên số tiền 800 triệu đưa vợ chồng anh D tôi cũng không yêu cầu viết giấy, vì đã có giấy nhận tiền của bà L.

Tại vụ án này, Hợp đồng nhận chuyển nhượng của anh NVC bị tuyên vô hiệu, cho rằng ông D bị bà L lừa dối, còn anh NVC lừa dối bà L, ép buộc phải ký. Nhưng lại không chứng minh được anh NVC ép buộc trước mặt công chứng viên là hoàn toàn vô lý,  trong  khi đó các bên vợ chông ông D, bà L không yêu cầu truy tố về việc chiếm đoạt tài sản của nhau, nhưng Tòa án các cấp không xem xét.

Vì vậy, việc Tòa án nhân cấp cao Hà Nội không thu thập thêm chứng cứ như kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã kháng nghị và nhận định, quyết định rút đơn kháng nghị của Viện kiển sát nhân dân tỉnh Thái Bình là trái pháp luật, đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi, lợi ích hợp pháp của anh NVC theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nhâm Thị Lan – Văn phòng Luật sư Hoàng Phát

(Bài viết này thuộc về Văn phòng Luật sư Hoàng Phát, vui lòng trích nguồn khi sử dụng. Bài viết có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Điều khoản được áp dụng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Mọi ý kiến thắc mắc về bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ mail luathoangphat@gmail.com.)

 

 

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger