• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Chia “tài sản chung của hộ gia đình” hay “chia di sản thừa kế”?


Ngày 14/8/2025, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội mở phiên Tòa xét xử vụ án Chia di sản thừa kế”, nguyên đơn là ông: Nguyễn Đức O, bị đơn là bà: Bùi Thị T và anh Nguyễn Đức Đ.

Tuy nhiên, ngày 14/8/2025 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án với lý do đưa ra: Anh Nguyễn Đức Đ (người kháng cáo) đã được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt là từ bỏ quyền của người kháng cáo.

Vậy việc Tòa án cấp sơ thẩm chia di sản thừa kế mà không xem xét đến việc tài sản chung của hộ gia đình có phù hợp hay không? Việc Tòa án xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm có phù hợp với quy định của pháp luật hay không? Để bảo vệ quyền lợi của mình người kháng cáo phải làm gì?

Tóm tắt nội dung:

Ngày 07/12/1999, UBND huyện Lâm Thao cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 346xxx đối với thửa đất xxx, tờ bản đồ số 03, diện tích 594m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, người sử dụng đất ông Nguyễn Văn H (tức Nguyễn Đức H), nay là thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, diện tích: 583,2m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ.

Ngày 28/3/2023, ông Nguyễn Đức O khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Đức Q, cụ Vi Thị C tại thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, diện tích: 583,2m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ. Cụ Nguyễn Đức Q, chết năm 1963; Cụ Vi Thị C, chết năm 2012; Cụ Q, cụ C có 8 người con gồm: Nguyễn Đức Đ (hy sinh 1974, không vợ con), Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thị N, Nguyễn Đức H (chết năm 2017 có vợ là Bùi Thị T và 3 người con: Nguyễn Thị H, Nguyễn Đức Đ, Nguyễn Thị N), Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Đức O, Nguyễn Thị Y.

Ngày 22/4/2024, ông O sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện, theo đó ông O đề nghị hủy GCNQSDĐ do UBND huyện Lâm Thao cấp cho ông Nguyễn Đức H ngày 07/12/1999.

Ngày 28/10/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm xác định cụ Q và cụ C để lại 583,2 m2 : 2 (cụ Q và cụ C) = 291,6 m2

+) Phần của cụ Q

Được chia thành 3 phần (cho bà T, anh Đ, bà H1): 291,6 m2 : 3 = 97,2 m2

+) Phần của cụ C

Được chia thành 8 suất thừa kế (ông O; bà H1; bà N; bà Y; bà H2; bà Đ; ông H – thừa kế thế vị là: anh Đ, chị H, chị N; công của người quản lý): 291,6 m2 : 8 = 36,45 m2

Ông O được chia: 36,45 m2 + 36,45 m2 (của bà H2 cho ông O) = 72,9m2

Anh Đ được chia: 36,45 m2 (phần của ông H, các chị em nhường cho anh Đ) + 36,45 m2 (của bà N cho anh Đ) + 36,45 m2 (của bà Y cho anh Đ) + 24,3m2 (tương đương 2/3 suất thừa kế do có công quản lý của anh Đ và bà T) = 133,65m2.

Bà H1 được chia: 36,45 m2 + 36,45 m2 (của bà Đ cho bà H1) + 12,15 m2 (tương đương 1/3 suất thừa kế do có công quản lý)= 85,05 m2

Lập luận của Luật sư để bảo vệ quyền lợi của anh Đ:

Thứ nhất: Về nguồn gốc thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, diện tích: 583,2m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ cần được xác định là tài sản chung của hộ gia đình đang sử dụng đất vào năm 1999

I/. Tòa án xét xử sơ thẩm nhận định: Về nguồn gốc thửa đất là của cụ C, cụ Q (dựa trên lời khai của nguyên đơn, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), không chấp nhận việc ông H, bà T khai hoang, phục hóa 200m2 đất của chùa Phùng Nguyên bỏ hoang ở vị trí sân, cổng như hiện nay, còn đất của cụ Q, cụ C là ở vị trí nhà của bà Nguyễn Thị H hiện nay (theo biên bản làm việc của cụ Nguyễn Thị H – sinh năm 1942 (BL 394), cụ Nguyễn Quang V – sinh năm 1950 (BL 468), cùng ở tại khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ)” là không phù hợp. Bởi các lý do sau:

1/. Không có bất kỳ tài liệu, văn bản nào xác định được nguồn gốc sử dụng thửa đất số 322, tờ bản đồ số 40, tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ là tài sản chung của cụ Q và cụ C.

2/. Trong bản đồ, hồ sơ địa chính, sổ mục kê không có thông tin người có quyền sử dụng đất, đến năm 1999 có thông tin người sử dụng đất là ông Nguyễn Văn H (tức Nguyễn Đức H) tại sổ địa chính (BL 261) và sổ mục kê (BL 260).

Ngày 07/12/1999, UBND huyện Lâm Thao cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số O 346xxx đối với thửa đất xxx, tờ bản đồ số 03, diện tích 594m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, người sử dụng đất ông Nguyễn Văn H (tức Nguyễn Đức H) (BL 192).

3/. Trong quá trình sử dụng đất ông Nguyễn Đức H (bố anh Nguyễn Đức Đ) là người nộp thuế đất hàng năm, biên lai thu thuế đều đứng tên ông H, ngoài ra không có ai là con của cụ Q, cụ C nộp thuế, theo lời trình bày của ông Nguyễn Văn L (sinh năm 1955, địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) – cán bộ thu thuế đất của xã Kinh Kệ từ năm 1990 đến năm 2010 (tháng 6/20210) (BL 395): “Trong quá trình thu thuế nhà đất, ông Nguyễn Đức H là người nộp thuế đất hàng năm, biên lai thu thuế đều đứng tên ông H, ngoài ra không có ai là con của cụ Q, cụ C nộp thuế” và thông báo nộp thuế của xã Kinh Kệ năm 1998, 1999 (BL 401) đều có tên Nguyễn Văn H.

4/. Việc xác định nguồn gốc sử dụng thửa đất xxx, tờ bản đồ số 40, tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ được Tòa án xét xử sơ thẩm dựa trên lời khai có nhiều mâu thuẫn như sau:

+) Bà Nguyễn Thị N, trình bày tại Bản tự khai ngày 26/5/2023 – BL 107:Đất ông cha tôi là cháu ông N đang ở, còn đất đang ở là bố tôi khai hoang, sau khi bố tôi mất còn mẹ tôi nuôi 7 anh em tôi lớn lên, mẹ tôi ở với ông H và xin cấp đất cho ông O ở cây xăng bây giờ ông H gắp phải, còn ông O bà cô tôi mua cho mấy 2 héc ta đồi Thanh Sơn và bỏ đất Phùng Nguyên đi Thanh Sơn 30 năm nay rồi”.

Tại biên bản hòa giải ngày 26/6/2023 (BL 131-136), bà N trình bày: “Nguồn gốc đất là do bố mẹ tôi khai hoang, sau đó bố tôi mất và một người con hy sinh trong chiến trường năm 1973 chỉ còn lại mẹ tôi nuôi 7 anh chị em, khi lớn lên các chị em đi lấy chồng chỉ còn ông H ở cùng với mẹ tôi. Ông O được ông H xin cấp đất cho ở chỗ khác và ông O còn có bà cô mua cho 2 ha đồi Thanh Sơn và ông O bỏ đất Phùng Nguyên đi Thanh Sơn 30 năm nay rồi”.

+) Anh Nguyễn Đức Đ khai tại Bản tự khai ngày 11/5/2023 – BL 89, 90 như sau: “Ông, bà nội tôi sinh ra anh chị em và bố tôi là Nguyễn Đức H (các con của cụ) có sinh sống trên mảnh đất vỡ hoang từ năm 1968”.

+) Ông Nguyễn Đức O: Sinh thời bố mẹ ông được ông bà nội ông là bà Lê Thị T và ông Nguyễn Đức P để lại cho một thửa đất (Bản tự khai – BL 20, 47, 76).

+) Bà Nguyễn Thị Đ: Bố mẹ bà (cụ Q, cụ C) được ông bà nội bà (cụ T, cụ P) để lại một thửa đất có diện tích 594m2, địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Bản tự khai – BL 79).

+) Cụ Nguyễn Đức B (em trai của cụ Q) cho biết: Thửa đất này là từ đời cụ P để lại cho cụ B, khi cụ Q lấy cụ C (năm 1946) đã được cụ B chia cho thửa đất nêu trên để ở (Giấy xác nhận – BL 40, Bản tự khai – 81).

+) Bà Nguyễn Thị H2 (Bản tự khai ngày 26/5/2023 – BL 105): Nguồn gốc đất của bố mẹ tôi là do ông cha để lại.

Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ là tài sản chung của cụ Q và cụ C là không phù hợp, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của những người sử dụng thửa đất số 322, tờ bản đồ số 40, diện tích: 583,2m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ vào năm 1999.

         

II/. Đề nghị Tòa án xem xét theo hướng: Công nhận thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, diện tích: 583,2m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ là tài sản chung của hộ gia đình vào năm 1999, đại diện hộ gia đình là ông Nguyễn Đức H.

CĂN CỨ:

– Tại sổ địa chính (BL 261) và sổ mục kê (BL 260): ghi thông tin người sử dụng đất của thửa đất trên là: Nguyễn Văn H. Ngoài ra, trong hồ sơ địa chính không ghi thông tin nào khác về người có quyền sử dụng thửa đất trên.

– Lời khai của chính quyền địa phương xác định quyền sử dụng thửa đất số 322, tờ bản đồ số 40, tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ là của hộ gia đình.

+) Ông Nguyễn Mạnh T – đại diện theo ủy quyền của UBND huyện Lâm Thao, trình bày tại Biên bản lấy lời khai ngày 21/5/2024 (BL 329): “Căn cứ vào các tài liệu còn lưu trữ xác định: Nguồn gốc sử dụng thửa đất số 322, tờ bản đồ số 3, diện tích 594 m2 tại địa chỉ khu 2, xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ là đất thổ cư do hộ ông H sử dụng từ trước năm 1999).

Năm 1999, thực hiện dự án đo đạc UBND xã Kinh Kệ (nay là xã Phùng Nguyên) đã hướng dẫn nhân dân kê khai, đăng ký cấp GCNQSDĐ và hoàn thiện hồ sơ trình UBND huyện Lâm Thao cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân xã Kinh Kệ. Tại thời điểm đó, ông Hùng đại diện cho hộ gia đình đứng ra kê khai và được cấp GCNQSDĐ đứng tên ông Nguyễn Văn H.

Năm 1999 chủ trương cấp GCNQSDĐ cho các hộ dân xã Kinh Kệ, (nay là xã Phùng Nguyên), huyện Lâm Thao, hầu hết các hộ dân đều có một người đại diện chủ hộ đứng ra kê khai và được ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận. Trong GCN của các hộ dân xã Kinh Kệ lúc đó được cấp GCNQSDĐ đều đứng tên người đi kê khai. Tuy nhiên, đất đó là nhà nước cấp cho hộ gia đình chứ không phải cấp riêng cho ông H. Giấy chứng nhận cấp cho ông H năm 1999 là cấp lần đầu”.

+) Ông Cao Bá K – Phó Chủ tịch UBND xã Phùng Nguyên và ông Nguyễn Thiện T – cán bộ địa chính xã Phùng Nguyên, trình bày tại Biên bản xác minh ngày 23/8/2023 (BL 195) như sau: “Về nguồn gốc thửa đất số 322, tờ bản đồ số 40 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao …. do bố mẹ để lại, trước năm 1999 cụ Vi Thị C là mẹ đẻ của ông Hg là người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất này. Năm 1999, ông H đại diện hộ gia đình đứng ra kê khai, làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), sau đó thửa đất nêu trên được cấp GCNQSDĐ đứng tên ông H. Tuy nhiên, việc cấp GCNQSDĐ là cấp cho hộ ông H bao gồm tất cả các thành viên gia đình ông H ở trên thửa đất tại thời điểm cấp GCNQSDĐ chứ không phải riêng cho ông H… Quá trình sử dụng đất từ trước đến nay, thửa đất nêu trên hộ ông H không có tranh chấp với các hộ liền kề”.

+) Ông Nguyễn Lan T – cán bộ địa chính xã Kinh kệ từ năm 1994 đến năm 2014 (nay xã Kinh Kệ thuộc xã Phùng Nguyên) ở cùng thôn với gia đình cụ Vi Thị C, trình bày tại Biên bản ngày 23/8/2023 (BL 191) như sau:

“Nguồn gốc thửa đất số 322, tờ bản đồ số 40 tại khu 2, xã Phùng Nguyên là do cụ Vi Thị C quản lý, sử dụng từ lâu từ (trước năm 1999)”.

Năm 1999, ông H con cụ C đứng ra kê khai, làm thủ tục cấp GCNQSDĐ, thời điểm đó ông H đại diện hộ gia đình đứng ra kê khai. Đến ngày 07/12/1999, ông H được cấp GCNQSDĐ do Nhà nước cấp lần đầu.

Thời điểm cấp GCNQSDĐ thì gia đình ông H có cụ C, vợ chồng ông H, bà T cùng các con ông H, bà T và mẹ con bà H1 ở trên thửa đất này”.

Theo đó, tại thời điểm năm 1999 ở thửa đất 322, tờ bản đồ số 3 (cũ) nay là tờ bản đồ 40, địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên được cấp GCNQSDĐ có 08 (tám) người ở trên đất, được công nhận là người có quyền sử dụng đất là: cụ Vi Thị C, ông Nguyễn Đức H, bà Bùi Thị T, anh Nguyễn Đức Đ, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị N, bà Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Thị H3”. Những người này đã trực tiếp quản lý, sử dụng đất công khai, ổn định, liên tục trong thời gian dài mà không có ai tranh chấp. Đồng thời, ông H đã đăng ký kê khai quyền sử dụng đất mà không có ý kiến phản đối, không có tranh chấp. Theo đó, những người này là người có quyền sử dụng đất là phù hợp với quy định về việc cấp GCNQSDĐ theo Luật Đất đai năm 1993, phù hợp với xác nhận của UBND xã Phùng Nguyên (BL 195), UBND huyện Lâm Thao (BL 329) và cán bộ địa chính năm 1994 đến 2014 của xã Phùng Nguyên (BL 191).

Tuy nhiên, Tòa án đã không xem xét hồ sơ lưu tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không xem xét đến trình bày của cán bộ quản lý đất đai và cán bộ ở địa phương, chỉ dựa vào lời khai của nguyên đơn, người liên quan để cho rằng di sản thừa kế cụ C để lại là ½ thừa đất số 322, tờ bản đồ số 40, tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ là phiến diện, không phù hợp với thực tế sử dụng đất, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh Đ và của những người trực tiếp sử dụng đất năm 1999.

Thứ hai: Về việc phân chia di sản thừa kế của cụ Vi Thị C tại thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ

Đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của cụ C theo hướng: Xác định thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, diện tích: 583,2m2 tại địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ là tài sản chung của hộ gia đình, gồm 08 (tám) người sinh sống quản lý sử dụng thửa đất vào năm 1999.

Di sản của cụ Vi Thị C để lại là: 72,9 m2  tại thửa đất số xxx, tờ bản đồ số 40, địa chỉ: Khu 2, xã Phùng Nguyên, tỉnh Phú Thọ (trước đây là: Khu 2, xã Phùng Nguyên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ). Trong đó có: 25m2 đất ở, 47,9m2 đất vườn.

Cụ C chết, không để lại di chúc, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ C là: ông O; bà H1; bà N1; bà Y; bà H2; bà Đ; ông H – thừa kế thế vị của ông H là: anh Đ, chị H, chị N.

Thực tế có bà T, bà H1, vợ chồng anh Đ và chị H đang quản lý, sử dụng, trông coi, tôn tạo toàn bộ thửa đất này; vợ chồng ông H và bà T, cùng vợ chồng anh Đ và chị H là những người trực tiếp nộp thuế của toàn bộ thửa đất này nên cần chia công sức quản lý cho những người này bằng một suất thừa kế. 

Do đó, di sản của cụ C để lại cần chia thành 8 suất thừa kế (ông O; bà H1; bà N1; bà Y; bà H2; bà Đ; ông H – thừa kế thế vị của ông H là: anh Đ, chị H, chị N; công của người quản lý): 72,9 m2: 8 = 9,1125 m2. Trong đó có: 3,125 m2 đất ở, 5,9875 m2 đất vườn.

Đối với việc Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội: Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án vào ngày 14/8/2025 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Vậy anh Nguyễn Đức Đ phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình.

Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội: Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án vào ngày 14/8/2025 là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bởi:

1/. Anh Đ – người kháng cáo chỉ nhận được quyết định số 579/2025/QĐ-PT ngày 25/7/2025 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về việc đưa vụ án ra xét xử vào ngày 14/8/2025. Ngoài ra, trước đó anh Đ không nhận được bất kỳ quyết định hay thông báo nào khác về việc xét xử phúc thẩm vụ án trên. Vì vậy, đây là lần Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất đối với anh Đ.

2/. Do đó, ngày 14/8/2025, là lần thứ nhất anh Đ vắng mặt do bị ốm – đây là lý do chính đáng, không phải là “vắng mặt lần thứ hai dù đã triệu tập hợp lệ” như nhận định của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.

Do đó, việc Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đình chỉ xét xử phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm cho anh Đ không thực hiện được quyền, nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của anh Đ.

Anh Nguyễn Đức Đ phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?

Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, anh Đ buộc phải đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm ngày 14/8/2025 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.

Bài viết này của Luật sư, chỉ mang tính chất tham khảo, không sử dụng vào mục đích thương mại hoặc bất kỳ hình thức nào khác.

Tác giả: Ls. Hoàng Chung

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger