• Hotline: 0878198555
  • Email: luathoangphat@gmail.com

Sở hữu chung của vợ chồng


1/Sở hữu chung của vợ chồng là loại sở hữu nào?

Theo Điều 213 BLDS năm 2015 quy định:

1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.

5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.”

Như vậy, với tư cách là luật chung của hệ thống luật tư, BLDS năm 2015 đã dự liệu các nội dung liên quan đến sở hữu chung và sở hữu chung hợp nhất về tài sản của vợ chồng.

Kế thừa tinh thần của BLDS năm 2015, Khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định: Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

2/Đặc điểm về tài sản chung của vợ chồng theo hình thức sở hữu chung hợp nhất

Nhà làm luật đã dựa vào “thời kỳ hôn nhân” của vợ chồng để quy định là căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân (khoản 13 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014). Theo nguyên tắc chung về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, cứ trong thời kỳ hôn nhân mà vợ hoặc chồng tạo ra được hoặc có được tài sản, các khoản thu nhập hợp pháp thì đều được tính là thuộc tài sản chung của vợ chồng (trừ nguồn gốc là tài sản riêng của vợ, chồng).

Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, với những đặc điểm sau:

Tài sản chung của vợ chồng không cần phải cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra tài sản, mà chỉ do một bên vợ, chồng tạo ra hoặc có được trong thời kỳ hôn nhân. Ví dụ: Tiền lương của mỗi bên trước khi kết hôn là tài sản riêng, nhưng sau khi kết hôn lại là tài sản chung của vợ chồng;

Khi hôn nhân đang tồn tại, trong thời kỳ hôn nhân thì không thể xác định được cụ thể đâu là tài sản của vợ, đâu là tài sản của chồng. Ví dụ: Căn nhà là tài sản chung thì vợ chồng với tư cách là chủ sở hữu, đều có mọi quyền và nghĩa vụ ngang nhau và luôn có phần (tỉ lệ) bằng nhau đối với căn nhà là tài sản chung đó;

Với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản chung, vợ, chồng đều có quyền, nghĩa vụ bình đẳng khi thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung;

Tài sản chung của vợ chồng là do luật định, được áp dụng trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng không thể thỏa thuận để thay đổi loại chế độ tài sản này.

3/Quyền và nghĩa vụ của vợ/chồng

Trước hết, tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất được sử dụng để đảm bảo cho nhu cầu đời sống chung của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản chung, vợ chồng phải tuân thủ các nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng được pháp luật quy định.

Luật Hôn nhân và gia đình thực hiện theo nguyên tắc vợ chồng là chủ sở hữu đối với tài sản chung, luôn có quyền và nghĩa vụ bình đẳng, ngang nhau đối với tài sản chung.

Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ thực hiện các giao dịch, đảm bảo điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Tài sản chung của vợ chồng được dùng vào việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh của cả gia đình.

Vợ chồng đều có quyền ngang nhau đối với khối tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một trong hai người thực hiện giao dịch mà tài sản có giá trị lớn phải được sự đồng ý của bên kia hoặc phải có thỏa thuận bằng văn bản trong trường hợp: Bất động sản và Động sản mà theo quy định của pháp luật là phải đăng ký quyền sở hữu. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch có thể làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình, ví dụ như liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.

Pháp luật quy định như vậy nhằm đảm bảo cho vợ chồng được bình đẳng trong quan hệ gia đình, xóa bỏ chế độ gia trưởng trong gia đình. Cùng với việc quy định tài sản chung, Luật cũng quy định về tài sản riêng của vợ và chồng. Đó là tài sản có trước thời kì hôn nhân hoặc được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân. Vợ, chồng có thể tự nguyện nhập khối tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của gia đình.

Như vậy, từ đó có thể thấy, khi hôn nhân còn tồn tại, không thể xác định được phần tài sản cụ thể của vợ, chồng trong khối tài sản chung. Họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất. Ngoài tài sản chung của vợ chồng, nếu gia đình đã có con trưởng thành, có thu nhập theo nghề nghiệp, được tặng cho hoặc được thừa kế và có đóng góp công sức, tiền vào việc duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình thì họ cũng có quyền sở hữu đối với khối tài sản chung của gia đình.

Phần tài sản cụ thể của mỗi người chỉ được xác định rõ ràng khi một trong số họ chết mà những người thừa kế yêu cầu chia tài sản của người chết, nếu tài sản này thuộc sở hữu chung của bố mẹ và các con; Phần cụ thể của mỗi người còn được xác định nếu có lí do chính đáng và họ thỏa thuận chia, hoặc tài sản được phân chia theo quyết định của tòa án khi ly hôn. Nếu vợ chồng ly hôn, về nguyên tắc tài sản sẽ được chia đôi nhưng có xem xét đến công sức đóng góp của mỗi người vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung, có ưu tiên cho những người phải nuôi và chăm sóc con còn nhỏ.

Vợ chồng cũng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp việc chia tài sản sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ (nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại,…), nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản được công chứng theo yêu cầu và quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án giải quyết, Tòa án áp dụng các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng như khi ly hôn.

(Bài viết này thuộc về Văn phòng Luật sư Hoàng Phát, vui lòng trích nguồn khi sử dụng. Bài viết có thể được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau. Điều khoản được áp dụng có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm bạn đang đọc. Mọi ý kiến thắc mắc về bài viết vui lòng liên hệ qua địa chỉ mail luatsuhoangphat@gmail.com)

DỊCH VỤ NỔI BẬT

Zalo Phone Messenger